Thứ Sáu, 8 tháng 8, 2014

RE: Hoàng Sa và Trường Sa trong hội nghị San Francisco 1951 _ Trần Gia Phụng (Danlambao)



Hoàng Sa và Trường Sa trong hội nghị San Francisco 1951 _

Trần Gia Phụng (Danlambao)Thế chiến thứ hai chấm dứt năm 1945, nhưng cho đến năm 1951 Hội nghị tại San Francisco (Hoa Kỳ) giữa Nhật Bản và các nước Đồng minh mới diễn ra để Nhật Bản xác định lập trường hòa bình, từ bỏ chủ quyền trên các vùng đất Nhật Bản chiếm đóng trong thế chiến, bàn chuyện Nhật Bản bồi thường cho các nạn nhân và tù binh chiến tranh, cũng như quyết định chấm dứt quân đội nước ngoài chiếm đóng Nhật Bản và trao trả chủ quyền lại cho Nhật Bản.

1. Nhật bản thất trận

Nhật Bản xâm lăng Mãn Châu năm 1931, lập ra Mãn Châu Quốc năm 1932, đưa vị vua cuối cùng của nhà Thanh là Phổ Nghi (Pu Yi, trị vì Trung Hoa 1908-1912) lên làm giám quốc vì nhà Thanh gốc người Mãn Châu. Nhật chiếm Nam Kinh (Trung Hoa) ngày 13-12-1937, gây ra cuộc thảm sát kinh hoàng trong 6 tuần lễ, giết hại khoảng 300,000 dân Trung Hoa.

Ngày 25-11-1936, Nhật ký với Đức hiệp ước chống Đệ tam Quốc tế (Anti Cominter Pact) nhắm vào Liên Xô. Năm sau, Ý gia nhập tổ chức nầy ngày 6-11-1937. Ba nước còn ký Hiệp ước Liên minh tay ba tại Berlin ngày 27-9-1940, thường được gọi là Trục Bá Linh–La Mã–Đông Kinh (Berlin–Roma–Tokyo Axis). Từ đó, trong khi Đức Ý tung hoành ở Âu Châu, thì Nhật bành trướng ở Á Châu.

Nhật đưa quân đến Đông Dương năm 1940, nhưng vẫn để Pháp cai trị Đông Dương. Ngày 7-12-1941, Nhật bất ngờ tấn công Pearl Harbor (Hawaii), tàn phá hạm đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, giết hại 2,400 người Hoa Kỳ. Hôm sau (8-12-1941), Hoa Kỳ và Anh tuyên chiến với Nhật Bản. Quân đội Nhật ào ạt đổ bộ lên miền nam Thái Lan (8-12-1941), bắc Mã Lai (8-12), tấn công Manila (8-12), đến quần đảo Luzon (10-12-1941), chiếm Bataan (9-4-1942), và toàn bộ Phi Luật Tân (5-1942).

Trong khi chiến tranh diễn ra càng ngày càng ác liệt tại Đông Á giữa lực lượng Đồng minh (gồm quân đội Hoa Kỳ, Anh và Trung Hoa Quốc Dân Đảng) với quân đội Nhật Bản, thì Liên Xô vẫn tiếp tục bang giao với Nhật Bản vì Liên Xô ký hòa ước bất tương xâm với Nhật Bản từ ngày 13-4-1941. Ngày 6-8-1945, Hoa Kỳ thả quả bom nguyên tử đầu tiên xuống Hiroshima (Nhật Bản). Liên Xô biết chắc chắn Nhật Bản sẽ đầu hàng, liền mời đại sứ Nhật tại Moscow đến bộ Ngoại giao Liên Xô lúc 5 giờ chiều ngày 8-8-1945 và ngoại trưởng Liên Xô Mikailovich Molotov thông báo cho đại sứ Nhật Bản biết rằng Liên Xô quyết định tuyên chiến với Nhật. (Basil Collier, The Second World War: a Military History, Gloucester, Mass: Pater Smith, 1978, tt. 529-530.)

Sáng sớm hôm sau (9-8-1945), Liên Xô tràn quân qua chiếm Mãn Châu và vùng đông bắc Trung Hoa, chỉ vài giờ trước khi Hoa Kỳ dội thêm quả bom nguyên tử thứ hai xuống thành phố Nagasaki. Liên Xô tiến quân chiếm luôn cả miền bắc bán đảo Triều Tiên. Cuối cùng, Nhật hoàng quyết định đầu hàng ngày 14-8-1945. Hiệp ước đầu hàng được ký kết trên chiến hạm Missouri, thả neo trong vịnh Đông Kinh, do đại tướng Mac Arthur chủ trì.

Như thế, Liên Xô dựa vào thời cơ để nhập cuộc trong chiến tranh chống Nhật Bản năm 1945, thiệt hại không đáng kể mà hưởng lợi tối đa ở miền đông bắc châu Á.

2. Hội nghị san francisco

Sau chiến tranh, đất nước Nhật Bản kiệt quệ, kinh tế suy thoái. Nhật Bản thay đổi chính sách, từ bỏ chế độ quân phiệt, từ bỏ tham vọng đế quốc, ban hành hiến pháp hòa bình ngày 3-11-1946, có hiệu lực từ 3-5-1947. Theo hiến pháp mới, Nhật Bản theo đại nghị chế, Nhật hoàng chỉ còn giữ địa vị tượng trưng. Đặc biệt điều 9 chương II hiến pháp quy định Nhật Bản không có có Hải, Lục, Không quân và chính phủ Nhật Bản từ nay không được quyền tuyên chiến.

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgZkblgNHNCwSe4Jh_Qq8dBsQfUfprRM1LMBKnXavSeIfLcniknKoQpH2eYITol914FNYoerpXCS6t2DupnuU-lGRZYbYMyo42a7E6jpeJ0H2-ld21dMN5_r0usvbGQEnn4kA-OOF37VSn8/s1600/580670.jpg
Quang cảnh hội nghị San Francisco - Hình: Tuoitre.vn

Hoa Kỳ là nước có quân chiếm đóng Nhật Bản đồng thời viện trợ cho Nhật Bản tái thiết đất nước. Cuộc thương thuyết giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ đưa đến hai hội nghị hòa bình San Francisco từ ngày 4 đến ngày 8-9-1945. Hội nghị thứ nhất gồm có 51 quốc gia tham dự trong đó có cả Nhật Bản, đưa đến Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản (Treaty of Peace with Japan). Hội nghị thứ hai giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản đưa đến Hiệp ước An ninh giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản (Security Treaty between United States and Japan). Chuyện giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản không nằm trong bài viết nầy.

Hội nghị 51 nước tham dự theo thứ tự ABC là: Argentina, Australia, Belgium, Bolivia, Brazil, Cambodia, Canada, Ceylon, Chile, Colombia, Costa Rica, Cuba, Czechoslovakia, Dominican Republic, Ecuador, Egypt, El Salvador, Ethiopia, France, Greece, Guatemala, Haiti, Honduras, Indonesia, Iran, Iraq, Japan, Laos, Lebanon, Liberia, Grand Duchy of Luxembourg, Mexico, Netherlands, New Zealand, Nicaragua, Norway, Pakistan, Panama, Peru, Republic of the Philippines, Poland, Saudi Arabia, Soviet Union, Syria, Turkey, Union of South Africa, United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland, United States of America, Uruguay, Venezuela, Viet Nam.

3. Thái độ của các nước cộng sản

Trong 51 nước trên đây, có ba nước lúc đó theo chế độ cộng sản là Czechoslovakia (Tiệp Khắc, chưa chia hai), Poland (Ba Lan) và Soviet Union (Liên Bang Xô Viết hay Liên Xô). Cả Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) lẫn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng) đều không được mời tham dự, vì hội nghị không biết mời ai là đại diện cho Trung Hoa tại hội nghị.

Trong dự thảo hiệp ước, Nhật Bản quyết định từ bỏ quyền hành ở các hải đảo dọc bờ biển Trung Hoa và Việt Nam, nhưng không ghi là giao lại cho ai, vì hải đảo của nước nào thì nước đó đương nhiên nhận lại. Dự thảo nầy được gởi đến các nước để tham khảo và tu chính trước ngày diễn ra hội nghị.

Trung Cộng không được mời tham dự hội nghị nên ngoại trưởng Trung Cộng lúc bấy giờ là Chu Ân Lai lên tiếng phủ đầu ngày 15-8-1951: “Chính phủ Nhân dân Trung ương nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa một lần nữa tuyên bố: Nếu không có sự tham dự của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trong việc chuẩn bị, soạn thảo và ký một hòa ước với Nhật Bản thì dù nội dung và kết quả của một hiệp ước như vậy có như thế nào, chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa cũng coi hòa ước ấy hoàn toàn bất hợp pháp và vì vậy vô hiệu.” (People’s China, tập IV, số 5 ngày 1-9-1951, do Quốc Tuấn trích dẫn trong bài “Nhận xét về các luận cứ của Trung Hoa liên quan tới vấn đề chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường sa”, tập san Sử Địa số 29, Sài Gòn: tháng 1-3/1975, tr. 221.)

Lập trường của Trung Cộng là đòi hỏi chủ quyền của Trung Cộng trên các quần đảo duyên hải Trung Hoa và duyên hải Việt Nam. Trung Cộng không tham dự hội nghị, nhưng đòi hỏi của Trung Cộng được đại diện Liên Xô trình bày trong phiên họp ngày 5-9-1951. Andrei Gromyko, đại diện Liên Xô, phản đối bản dự thảo hòa ước vì cho rằng đây là bản dự thảo do Hoa Kỳ và Anh soạn thảo, chưa đáp ứng được những yêu cầu cần thiết cho một nền hòa bình với Nhật Bản. Lời phản đối của Gromyko bị các thành viên khác trong hội nghị la ó. (Xin xem tài liệu đính kèm số 1.)

Lý do đại diện Liên Xô bị hội nghị la ó có thể vì bản dự thảo đã được gởi trước để các nước tham khảo, nhưng Liên Xô không trả lời, mà mãi đến khi hội nghị bắt đầu, mới lên tiếng làm mất thời giờ hội nghị và đại diện các nước không chuẩn bị trước với chính phủ của họ. Cũng có thể các nước Đồng minh biết rằng trong chiến tranh chống Nhật Bản, Liên Xô chờ đợi đến phút chót, Nhật Bản bị sụp đổ, Liên Xô mới tham chiến để chia phần nên các đại biểu không cảm phục.

Sau khi chủ tịch hội nghị can thiệp, kêu gọi tái lập trật tự hội trường, thì Gromyko mới tiếp tục phát biểu, đưa ra trước sau 13 điểm tu chính (sửa đổi 5 điểm cũ và đưa thêm 8 điểm mới), trong đó có một tu chính là sửa đổi khoản (b) và khoản (f), điều 2 chương II, liên quan đến các hải đảo dọc duyên hải Trung Hoa và duyên hải Việt Nam. Andrei Gromyko cho rằng các đảo Paracels (Hoàng Sa) và các đảo khác về phía Nam, được xem là lãnh thổ của Trung Cộng, và yêu cầu bổ sung vào hiệp định là các hải đảo đó thuộc chủ quyền của Trung Cộng. (Xin xem tài liệu đính kèm số 1.) Tuy nhiên, Gromyko không đưa ra bằng chứng cụ thể nào về chủ quyền của Trung Cộng đối với các đảo trên.

Trong cuộc biểu quyết ngày 7-9-1951, tất cả những tu chính của Liên Xô do Gromyko đưa ra, trong đó có cả tu chính khoản (b) và khoản (f) điều 2 chương II, tất cả đều bị hội nghị bác bỏ. Kết quả biểu quyết cụ thể là 46 phiếu chống, 3 phiếu thuận của ba nước cộng sản (Tiệp Khắc, Ba Lan và Liên Xô), 1 phiếu trắng và Nhật Bản không bỏ phiếu. Tỷ lệ bác bỏ là 46/51.

4. Ý kiến của việt nam

Đại diện Việt Nam tại hội nghị San Francisco là thủ tướng chính phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN) Trần Văn Hữu. Chính phủ QGVN do cựu hoàng Bảo Đại làm quốc trưởng. Theo hiệp định Élysée ngày 8-3-1949 Pháp giải kết hòa ước bảo hộ 1884 và trao trả độc lập lại cho Việt Nam. Chính thể QGVN chính thức được thành lập ngày 14-6-1949. Đạo dụ ngày 1-7-1949 chia Việt Nam làm ba phần: Bắc, Trung và Nam Phần. Hai ngày sau, quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm ba vị thủ hiến phụ trách ba phần, trong đó thủ hiến Trung Phần là dược sĩ Phan Văn Giáo.

Ngày 14-10-1950, khi Pháp quyết định giao lại quần đảo Hoàng Sa cho chính phủ QGVN, thủ hiến Phan Văn Giáo, đại diện chính phủ, đến tận quần đảo Hoàng Sa để nhận bàn giao chủ quyền quần đảo nầy. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975, tập B: 1947-1954, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 196.)

Nguyên dưới thời vua Bảo Đại (trị vì 1926-1945), Pháp thiết lập tòa Đại lý Hành chánh quần đảo Hoàng Sa ngày 15-6-1932. Vua Bảo Đại ban dụ số 10 ngày 30-3-1938 sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên, nên năm 1950, thủ hiến Trung Phần Phan Văn Giáo, đại diện chính phủ tiếp nhận việc bàn giao của Pháp. 
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiinwKN2YY01Y9W80AL05i5lo_B2uSZSQDsJdKCMkYB_tTwdgeiINvRyXKcsOIaryHWctTDIEXEM5mXLlungFVVHQ3ePfpONfWHwtR4OBVZ3uA6-xYVZ5MG0u0izaKP7Y7h3FIqxgogFTV-/s1600/t1.jpg


Ngoài thủ tướng Trần Văn Hữu, phái đoàn chính phủ QGVN còn có các ông: Nguyễn Trung Vinh (tổng trưởng bộ Tài chánh), Nguyễn Duy Thanh (tổng trưởng bộ Kế hoạch và Tái kiến thiết), và Bửu Kính.

Vì sắp theo thứ tự ABC, phái đoàn Việt Nam đứng áp chót, chỉ trước phái đoàn Nhật Bản là nước trong cuộc. Vì vậy phái đoàn Việt Nam được mời phát biểu gần như sau cùng ngày 8-9-1951. Vào cuối phần phát biểu của mình, thủ tướng Trần Văn Hữu nhấn mạnh: “And as we must frankly profit from all opportunities offered to us to stifle the germs of discord, we affirm our right to the Spratly and Paracel Islands, which have always belonged to Vietnam.” Tạm dịch: “Và chúng tôi phải thẳng thắn lợi dụng tất cả các cơ hội dành cho chúng tôi để chận đứng những mầm mống bất đồng, chúng tôi xác định chủ quyền của chúng tôi trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa vốn luôn luôn thuộc Việt Nam”. (Xin xem tài liệu đính kèm số 2, 3 và số 4.) Lời phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu không bị đại diện phái đoàn nào trong hội nghị phản đối và được ghi vào biên bản, chứng tỏ hội nghị đồng ý với quan điểm của chính phủ QGVN.

Cuối cùng, hội nghị đi đến việc ký kết bản Treaty of Peace with Japan (Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản) cũng trong ngày 8-9-1951 với 48 phiếu thuận, trừ ba nước cộng sản, đồng minh của Trung Cộng, không chịu ký. Bản hiệp ước có hiệu lực ngày 28-4-1952.

Bản hiệp ước San Francisco gồm 7 chương, 27 điều, trong đó khoản (f), điều 2, chương II, liên hệ đến Việt Nam nguyên văn như sau: “Japan renounces all right, title and claim to the Spratly Islands and to the Paracels Islands.” (United Nations Treaty Series 1952 (reg. no. 1832), vol. 136, pp. 45 - 164.) (Nhật Bản từ bỏ mọi quyền hành, danh nghĩa và đòi hỏi đối với quần đảo Spratly [Trường Sa] và quần đảo Paracels [Hoàng Sa].) (Xin xem tài liệu đính kèm số 5.) Nhật Bản từ bỏ mọi quyền hành, danh nghĩa và đòi hỏi đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa, nghĩa là Nhật Bản trả hai quần đảo nầy trở về với chủ cũ, mà thủ tướng Trần Văn Hữu đã minh định trước hội nghị và không một ai phản đối.

5. Kết luận

Hội nghị hòa bình giữa Nhật Bản và 50 nước trên thế giới tại San Francisco, riêng về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa, liên hệ đến Việt Nam, có thể rút ra hai kết luận:

Kết luận thứ nhứt là từ năm 1951, các nước trên thế giới, trừ các nước cộng sản đồng minh với Trung Cộng, đều phủ nhận đòi hỏi của Trung Cộng là các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Cộng qua phần phát biểu của đại diện Liên Xô tại hội nghị. Đồng thời các nước tham dự hội nghị không phản đối, nghĩa là chấp nhận và cho ghi vào biên bản lời thủ tướng Trần Văn Hữu xác định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hồ sơ toàn thể hội nghị cùng lời phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ấn hành ngay sau hội nghị, gởi cho tất cả các nước, cũng không bị nước nào phản đối, trừ Trung Cộng.

Kết luận thứ hai là lời phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu chứng tỏ chính phủ Quốc Gia Việt Nam luôn luôn tận dụng mọi cơ hội có thể có được, để tranh đấu bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, chống lại âm mưu xâm lược của nước ngoài và trong trường hợp nầy là Trung Cộng. Trong khi đó, Việt Minh cộng sản luôn luôn tuyên truyền rằng chính phủ Quốc Gia Việt Nam là “Việt gian bán nước”. Việt Minh cộng sản nhồi sọ học sinh bằng những câu thơ như:

“Văn Xuân, Văn Hữu cũng tay bợm già,
Cũng phường cỏng rắn cắn gà,
Rước voi giày mả ông bà tổ tông,
Cha đời lũ bán nước rong!”

(Thơ cộng sản dạy cho trẻ em trước năm 1954)

“Văn Xuân, Văn Hữu” là hai thủ tướng Nguyễn Văn Xuân và Trần Văn Hữu của chính phủ Quốc Gia Việt Nam. Thử so sánh lời phát biểu của Trần Văn Hữu với công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958 về vấn đề Hoàng Sa, xin quý vị độc giả hãy tự kết luận ai là “lũ bán nước rong”?

(Toronto, 4-8-2014)


________________________________

Tài liệu đính kèm trích từ:

Conference for the Conclusion and Signature of the Treaty of Peace
With Japan, San Francisco, California – September 4-8-1951, Record of Proceedings

Do Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ấn hành. Nhận được qua giáo sư THB (California)

Tài liệu 1: Phát biểu của đại diện Liên Xô
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgRtA34yoi8uqLxbi72wKlZUuNYhfsyJ2ywf032B4N_IRXkGtcD13dTJs4P8Ad-gPr_1lFTrKZC7mDsz9NhkZGMIx1VNhV2KhdPFkWU1E7MseuLvjClaqfNvN5arqYwLCB_HnkV6ohV20KA/s1600/t2.png

Tài liệu 2: Phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiy7RGKVf5_xe9WEAE4C0jubb_SyO063Y6BJ-aGKdw6mGK1rEt0O5VtsZg8Tbi0nGr3qcSguAKZSwXn_6ZrY4gJwwTTE3vbfqc2Zo_CgAIhaNFaxytOaiIOyURhKD6b-xql9KE0WSxxFdoA/s1600/t3.png

Tài liệu 3: Phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu (tiếp)

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiF8XsKELbR82TZQceNJQkqrc8yNNcWtIAH9znG6BzkJpm7XwCTv5wGoEbI_8GSXq0j-dcmSL4fpub-qFeymninmXGKbHv1TavKCs6tVqD93CmGrfEZAnpzODZ8o-a7hdqOTTpkcsFMPPQp/s1600/t4.png
Tài liệu 4: Phần cuối lời phát biểu của thủ tướng Trần Văn Hữu

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhL5qRwoOjDNXO1TZ5_zc5XLCuoJF1RKBiEjPTIjDVvko9xrDuvSHzOsxQ_8Ty5s8I1Kiog0cNTNh598sD_EDy70GvnExv43wnum_kMj77CpWqDJakhvAfPjGWhsg5mxdbssugCHJx8U_rb/s1600/t5.png
Tài liệu 5: Chương II, điều 2, khoản (f)
Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi4gPUbFtxzmiDhNksmuUYWq45eU0hLBnNhpA_jURPBY66ca60UnQtyuLLHXDYYRjcIOfu3Dv2MP0HLvTy3nU_KFmSjzDOQ1_uhNPcDllnb_PcVexMdGJ3c18QpJ4zYhUAwz4a39K-50Nnu/s1600/t6.png

Chủ Nhật, 15 tháng 6, 2014

RE: TQ đưa sách địa lý xuất bản năm 1974 của VN làm bằng chứng (nguon: danchimviet.info)



Việt cộng Tạ Quang Bửu, bộ trưởng giáo dục VNDCCH, aka "bộ đại học..." nhiệm kỳ 1965-1976, trách nhiệm soạn thảo, in ấn, xuất bản, phát hành, phổ biến cuốn sách giáo khoa "Địa lý lớp 9" năm 1974 của VNDCCH cộng sản,

dựa vào công an cộng sản Hồ chí Minh, dựa vào những "Hiêu trưởng" là các đảng viên Việt cộng ở nước VNDCCH, Việt cộng Lê Duẩn, Việt cộng Tạ Quang Bửu cưỡng ép học sinh lớp 9 VNDCCH phải học theo cuốn sách giáo khoa địa lý lớp 9 năm 1974 phản động &  phản quốc  ấy của cộng sản VNDCCH ,  mà như bài chủ cho biết, cuốn "sách giáo khoa" ấy đã đuọc bọn Trung cộng xâm lược đưa ra Liên Hiệp Quốc như một bằng chúng về hành động phản quôc cuả bọn cộng sản cờ đỏ sao vàng VNDCCH cắt dâng, nhìn nhận HS, TS là của Trung cộng .

*****

Như người ta biết, ở Việt nam Cộng hòa, ngoài bộ sách giáo khoa mẫu do Bộ Quóc gia Giáo Dục soạn thảo, sách giáo khoa của nền giáo dục VNCH nhân bản, dân tộc, khai phóng, tự do còn là do tư nhân, các nhà giáo, các nhà chuyện môn viết ra, rồi, tùy theo đó, trong cả rừng sách giáo khoa phong phú ấy,  các thầy cô giáo, các giáo sư VNCH sẽ lựa một cuốn để làm sách giáo khoa cho môn mình dạy, giới thiệu cho học sinh xử dụng làm sách giáo khoa cho môn học.

Sách giáo khoa, như nói trên, cũng là một sản phẩm của "kinh tế thị trường", nên theo tinh thần cạnh tranh của kinh tế thị trường, soạn giả phải cố gắng soạn cho đúng, cho hay, mới mong bán được, mới mong có nhiều người mua & dùng,

bên cạnh đó, cũng theo lề luật cạnh tranh, các soạn giả khác cũng sẵn sàng tìm ra những sai sót trong những sách giáo khoa do người khác soạn thảo để, cũng là dịp có thể nêu lên cái đúng, cái hay trong  sách do mình soạn thảo.

Ngoài ra, người sử dụng, chính các thầy cô giáo, các giáo sư, vì uy tín của mình, cũng phải xem xét kỹ càng trước khi chọn lựa một cuốn nào đó làm sách giáo khoa cho môn mình phụ trách, giới thiệu cho học sinh mua  & dùng.

Cho nên có thể nói, khi đuọc phổ biến, đuọc chấp nhận sử dụng, sách giáo khoa của nền giáo dục VNCH đã có một phẩm chất tuyệt hảo.

Sau cùng, nếu sách giáo khoa (VNCH) vẫn có gì sai sót, thì sai sót đó chỉ là trách nhiệm cá nhân,  của bản thân cá nhân soạn giả.

*****

Ngược lại, dưới ách giáo dục xã hội chủ nghĩa của VNDCCH cộng sản thì toàn thể sách giáo khoa các loại, các cấp, đều do "nhà nước", "trí thức cộng sản chân chính tim đỏ thẻ đỏ" dựa theo <b>"lập trường giai cấp"</b>, dựa theo <b>"tình hữu nghị môi hở răng lạnh với đồng chí Trung quốc vĩ đại"</b>, bất chấp sự thật lịch sử & địa lý, mà soạn thảo,

dựa vào công an cộng sản Hồ chí Minh, dựa vào những "Hiêu trưởng" là các đảng viên Việt cộng, ách giáo dục xã nghĩa VNDCCH cộng sản cưỡng ép thầy cô giáo, cưỡng ép học sinh dưới mái trường xã hội chủ nghĩa phải học theo "sách giáo khoa" ấy, do đó sách giáo khoa của VNDCCH cộng sản trong khi có một phẩm chất tồi tệ, sai lầm, thiếu sót,  lại là một phần tiếng nói chính thức của chế độ & nhà cầm quyền cộng sản. Do đó đã bị Trung cộng đưa ra [cuốn sách địa lý lớp 9 – 1974] như một bằng chứng pháp lý về việc VNDCCH cộng sản nhìn nhận HS & TS là của Trung cộng

Bọn cộng sản Hồ chí Minh & Lê Duẩn & bọn cộng sản Việt nam Dân chủ Cộng hòa gian ác phản quốc rước giặc tàu vào VN, đã gây nên cho đất nước dân tộc VN biết bao hệ lụy & mất mát, vô cùng to lớn, về đủ mọi khía cạnh.

________

http://www.danchimviet.info/archives/87942/tq-dua-sach-dia-ly-xuat-ban-nam-1974-cua-vn-lam-bang-chung/2014/06/comment-page-3#comments
04:51:pm 11/06/14 | Tác giả: Đàn Chim Việt
TQ đưa sách địa lý xuất bản năm 1974 của VN làm bằng chứng
Trong lúc Việt Nam dịu giọng và có phần tiếc nuối mối quan hệ ‘hữu nghị anh em’ với Trung Quốc thì Trung Quốc vẫn liên tục tấn công tàu thuyền Việt Nam. Động thái mới nhất, họ đã chủ động đưa vụ xung đột ra Liên Hiệp Quốc. Một trong những bằng chứng Trung Quốc trưng ra trong việc khẳng định chủ quyền của họ, sau công hàm do Phạm Văn Đồng ký năm 1958, là cuốn sách địa lý do miền Bắc Việt Nam xuất bản năm 1974 với nội dung công nhận Tây Sa, Nam Sa là của Trung Quốc.
Những hình ảnh do phía Trung Quốc đưa ra như sau:
a
bc
     


THEO DÒNG SỰ KIỆN:
  1. Tiểu luận chính trị của Václav Havel được xuất bản bằng tiếng Việt
  2. NXB hội Nhà văn VN bị sách nhiễu vì xuất bản thơ Nguyễn Thanh Giang
  3. RSF trưng bằng chứng chứng minh blogger Lê Văn Sơn vô tội
  4. Bellevue “dismissed” vụ kiện bị sách nhiễu bằng email
  5. Bối cảnh quốc tế chung quanh vụ Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974
  6. Phải gọi bọn chúng bằng đồ mặt… gì?

Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2014

Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia dân chủ tự do




Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia dân chủ tự do.

Có thể nói VNCH là một quốc gia dân chủ tự do mà không sợ sai, mà không cần phải khiêm nhường & rào đón & thêm thắt "tuy nhiên" & nhưng nhị & non trẻ & sơ khai" gì cả!

*****

Thử lấy một cái TV đen trắng màn hình CRT một khối cục mịch, do đế quốc Mỹ sáng chế, sản suất từ 60 năm trứơc, đặt bên một cái TV 60 inches, 4G, màn hình phẳng, "made in China", trên kệ hàng sản phẩm điện tử của năm 2014,

xong bảo rằng "Trung cuốc có nền công nghệ & kỹ thuât cao hơn Hoa kỳ", thì có đuọc không?

Dĩ nhiên câu trả lời là "KHÔNG",     

Bởi vì muốn sự đánh giá so sánh được trung thực, phải lấy 2 sản phẩm, ở đây là â cái TV, đuọc sáng chế & sản suất ở <b>cùng một thời điẻm</b> mà so sánh.

Phải lấy 2 cái TV, một của Mỹ, một của Tàu (nếu như Tàu có thể sáng chế ra TV, có thể tự sáng chế ra dây chuyền công nghệ sản suất TV) đuọc sáng chế & sản suất ở <b>cùng một thời điẻm</b> đem so sánh với nhau, rồi mới nói nền kỹ thuật & công nghiệp [sản suất TV] của ai hơn ai được.

Như vậy thật là sai lầm những luận điệu của một số trí thức cộng sản VNDCCH, sau một thời gian đuọc sống tại Băng-Cốc, Thái lan, lại dựa vào thể chế chính trị như đang có tại Thái Lan ngày nay ở thế kỷ 21, mà phê bình, rằng thì là mà "VNCH không dân chủ tự do bằng Thái Lan"!

Nên biết rằng, ở vào thời điểm cách đây 50 năm, trước 1975, thì Thái lan thua xa VNCH về mọi mặt kinh tế, chính trị, mà về chính trị thì Thái lan lúc ấy đã vang danh bốn biển năm châu với các "đại gia" như Thanom kyticachorn đặt Thái lan dưới một chế độ cai trị độc tài quân nhân sắt máu, mà có lẽ báo chí cộng sản hà nôi lúc ấy cũng không tiếc lời thóa mạ

Nên biết rằng, ở vào thời điểm cách đây 50 năm, trước 1975, VNCH đã có một thể chế chính trị dân chủ tự do cởi mở không chỉ hơn Thái lan, mà còn hơn nhiều quốc gia khác trong vùng, mà còn hơn nhều quốc gia khác trên thế giới,

Nên biết rằng, VNCH không chỉ dân chủ tự do & cởi mở hơn hẳn chế độ ách cai trị cộng sản VNDCCH ở miền bắc VN trước 1975, mà còn hơn hẳn chế độ & ách cai trị cộng sản CHXHCNVN ngày nay ở thế kỷ 21

*****

Đem cái dân chủ tự do của thế kỷ 21 ra mà làm tiêu chuẩn phê phán đời sống chính trị của 50 năm về trước thì rất không công bằng

Ngoài ra, phải biết rằng, khi nói đến một nền chính trị, có dân chủ tự do hay không, thì phải so sánh sự cởi mở của chế độ chính trị ấy đối với các nền chính trị khác  <b>đồng thời</b> với nó


*****  .

Hẳn không mấy ai không biết câu chuyện bà Rosa Park và một chỗ ngồi trên một chuyến xe buýt tại thành phố Montgomery, Alabama, bên Mỹ, ngày Dec 1, 1955. Đó là sự kỳ thị màu da & phân biệt chủng tộc!

Ngày nay, một chế độ chính trị mà lại có kỳ thị màu da & phân biệt chủng tộc như trên thì không thể đuọc coi là "dân chủ tự do & tôn trọng nhân quyền"

Tuy nhiên, mặc dầu sự kỳ thị màu da & phân biệt chủng tộc như kể trên, nước MỸ, vào thời điểm ấy, cách đây 60 năm, vẫn là một quốc gia dân chủ tự do thuộc hàng quán quân trên thế giới,

Tại sao vậy? Tại vì, ở vào thời điểm ấy, nước Mỹ, nền chính trị MỸ vẫn là một nền chính trị cởi mở hơn, hơn hẳn rất nhiều quốc gia khác, hơn hẳn nhiều nền chính trị khác <b>cùng thời với nó</b>,

*****

Vậy, <b>"dân chủ tự do" là điều có một ý nghĩa & giá trị tương đối</b>, nghĩa là, </b>một nền chính trị & một quốc gia, một chế độ chính trị đuọc coi là dân chủ tự do khi nền chính trị của quốc gia ấy có sự cởi mở hơn hẳn nền chính trị của nhiều quốc gia khác <u>đồng thời</u> với nó. </b>

*****

Theo nghĩa trên thì có thể nói "VNCH là một quốc gia dân chủ tự do" mà không sợ sai, mà không cần phải khiêm nhường thêm thắt "tuy nhiên" & "nhưng nhị" & "non trẻ" & "sơ khai"... gì cả,

bởi vì VNCH & nền chính trị, chế độ chính trị của VNCH cởi mở hơn hẳn nền chính trị ̃& chế độ chính trị của nhiều quốc gia khác <b>đồng thời</b> với VNCH.

*****

Nền chính trị, chế độ chính trị của VNCH cởi mở hơn hẳn ách cai trị cộng sản độc tài tại VNDCCH của nhà cộng sản Hồ chí minh. Đó là điều rất rõ ràng.

Chế độ chính trị của VNCH rõ ràng là hơn hẳn, rõ ràng là cởi mở hơn hẳn ách cai trị độc tài cộng sản tại Bắc hàn (Triều Tiên)cộng sản, tại Cuba cộng sản, tại Trung cộng, tại Nga cộng & Liên xô, tại các nước cộng sản Đông Âu chư hầu của Nga cộng & Liên xô,

nền chính trị của VNCH rõ ràng hơn hẳn ách cai trị độc tài cộng sản mật vụ <i>Stasi</i> Đông Đức,

Nền chính trị của VNCH lúc ấy cởi mở hơn hẳn nền chính trị tại các quốc gia Nam Mỹ độc tài & các quốc gia Hồi giáo độc tài...

Nền chính trị của VNCH lúc ấy cũng tỏ ra cởi mở hơn hẳn nền chính trị ở các lân bang Thái lan, Mã lai, Nam Dương, Phillippines, Đài loan, Đại hàn [Hàn quốc]...

Người ta chưa quên những "đại danh" một thời như Thanom Kittikachorn ở Thái Lan, Shuharto ở Indonesia, Park Chung-hee ở Hàn Quốc....

Trước 1975, nền chính trị của VNCH cởi mở hơn, hơn hẳn nhiều quốc gia khác trên thế giới cùng thời với VNCH. 

Do đó có thể kết luận: "VNCH là một quốc gia dân chủ tự do"

*****

Ở VNDCCH cộng sản, bên cạnh tội ác CCRD, bên cạnh cuộc đàn áp "nhân văn & giai phẩm", còn có những hành động tội ác xử dụng quân đội đàn áp chính trị thảm sát dân thường.

Bộ đội cộng sản Hồ chí Minh, dưới sự chỉ huy của Việt cộng Nguyễn Sĩ Đồng, tức Việt cộng Đồng Sĩ Nguyên ngày nay, đã thảm sát giết hại hàng 7000 người dân Quỳnh Lưu năm 1956.

[Ngày nay dưới ách cai trị cộng sản CHXHCNVN, bộ đội cộng sản Hồ chí Minh của các viên tướng Việt cộng ["trung với đảng" thay vì trung với quốc gia dân tộc], vẫn quen thói đàn áp chính trị từ thời Hồ chí minh, đã đem bộ đội cộng sản đàn áp chính trị, giết hại người dân tộc thiểu số tại tây Nguyên 2001 - 2004, tại Mường Nhé 2011, tại Tiên Lãng 2012, tại Văn Giang 2013, tại Dương Nội 2014]

Ở các quốc gia cộng sản Đông Âu, ở Cu ba cộng sản, ở Trung cộng, ở Nga cộng & Liên xô cũng vậy, cũng có tội ác quân đội đàn áp chính trị.

[Tại Trung quốc, sau 1975, tháng 6-1989 đã có thêm một hành vi tội ác quân đội đàn áp chính trị khi nhiều ngàn sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn, Bắc kinh bị quân đội nhân dân cộng sản Trung quốc thảm sát, chạy xe tăng lên sinh viên, càn nát thân thể người sinh viên]

Trước 1975, ở Đại Hàn, ở nam Dương, ở Đài Loan, ở các quốc gia độc tài nam Mỹ,cũng  có những cuôc quân đội đàn áp chính trị, giết hại người dân.

Tại Thái lan cho đến 1976 vẫn còn các cuộc quân đội đàn áp chính trị giết hại sinh viên...

Nhưng, ở VNCH tuyệt nhiên không hề có những điều như kể trên.

*****

Hiến Pháp của VNCH là Hiến Pháp "thật", nghĩa là người dân cũng như chính quyền đều tôn trọng, thực thi HP.

HP VNCH tôn trọng tam quyền phân lập, tôn trọng quyền tư pháp độc lập, tôn trọng quyền tư hữu, tôn trọng quyền biểu tình, quyền nghiệp đoàn, quyền lập hội, quyền tự do phát biểu ý kiến, quyền ra báo tư nhân, quyền tự do sáng tác, quyền tự trị đại học,

mọi người dân đều có quyền tiếp cận mọi nguồn thông tin trên khắp thế giới, thuộc mọi khuynh hướng chính trị, kinh tế, triét học, văn hóa nghệ thuật...

"Luật sư đoàn Sàigòn", "Y sĩ đoàn VNCH", là những hội nghề nghiệp mà lập trường, tiếng nói của họ về các vấn đề của quốc gia thường đuọc chính quyền cũng như người dân tôn trọng, lắng nghe,

[chứ không phải như "đoàn luật sư" VN xã nghĩa mà ở đó viên "chủ tịch đoàn luật sư", phải là một đảng viên cộng sản, và hầu hết thời gian & trách nhiệm & công việc, "nhiệm vụ cách mạng", của "chủ tịch đoàn luật sư" là theo dõi xem có luật sư hội viên nào có ý tưởng & hoạt động hướng về dân chủ tự do, thì báo với công an, thì tạo cớ & ngang nhiên loại trừ luật sư hội viên ra khỏi đoàn, nghĩa là không cho hành nghề luật sư, nghĩa là bao vây kinh tế, một thái độ hèn hạ rất khong nên có ở một "trí thức", nhưng lại là "hành động cách mạng & đạo đức ồ chí Minh" của trí thức cộng sản chân chính tim đỏ thẻ đỏ "lãnh đạo đoàn luật sư" dưới ách cai trị cộng sản..]

*****

Những quyền dân chủ tự do phổ biến tại VNCH, thì hoàn toàn không có tại VNDCCH lúc ấy cũng như tại CHXHCNVN ngày nay.

Dưới ách cai trị cộng sản chưa bao giờ người dân đuọc hưởng quyền dân chủ tự do, quyền công dân, quyền con người đúng nghĩa

Từ cộng sản Hồ chí Minh  &  VNDCCH cộng sản trước 1975 cho đến  CHXHCNVN cộng sản ngày nay, chưa bao giờ người dân dưới ách cai trị cộng sản đuọc hưởng quyền dân chủ tự do &  quyền công dân như người dân ở VNCH đuọc hưởng.

*****

Ngay từ 1960 nền chính trị dân chủ tự do của VNCH đã đưa nền kinh tế lên đến mức GDP/đầu người tại VNCH hơn hẳn Hàn quốc, gấp đôi Thái lan, gấp 3 lần miền bắc cộng sản VNDCCH.

Bên cạnh đó VNCH còn có một nền giáo dục nhân bản, dân tộc, khai phóng rất hữu ích cho quốc gia, rất đáng ngưỡng mộ, khâm phục

Nêu như người ta nói, nhìn vào nền giáo dục của một quốc gia, có thể đánh giá nền chính trị [dân chủ tự do hay không] của quốc gia & dân tộc ấy, có thể đánh giá tương lai & tiền đồ [tốt đẹp& xán lạn hay không] của quốc gia dân tộc ấy,

thì rõ ràng, tự một mình nền giáo dục của VNCH, nền giáo dục dân tộc, nhân bản, tự do khai phóng của VNCH, đã là biểu hiện cụ thể cho nền chính trị dân chủ tự do của VNCH, đã là biểu hiện cụ thể cho một tương lại tiến bộ, tiền đồ xán lạn của Việt nam


Sau khi  VNCH  bị cộng sản VNDCCH chiếm đóng, thì, khởi đi từ những "lễ hội" đốt sách VNCH, đốt sách của người miền nam, đốt sách của người Sài gòn, do lực lượng cs VNDCCH chiếm đóng và trí thức cộng sản chân chính tm đỏ thẻ đỏ từ miền bắc cộng sản vào, phối hợp với trí thức giải phóng & nam kỳ phản bội tổ chức, nền giáo dục tử tế của VNCH đã bị bọn cộng sản VNDCCH tàn phá & tieu diệt, [hệt như quân Minh đốt sách, tàn phá & tiêu diệt nền văn hóa & giáo dục Đại Việt sau khi quân Minh chiếm đóng Đại Việt ở cuối thời nhà Trần], thay vào đó là ách giáo dục “xã hội chủ nghĩa” vong bản ngoại lai tay sai giặc tàu, hủy diệt nhuệ khí Việt nam.

[điển hình là cuốn sach giáo khoa địa lý lớp 9 của nền giáo dục VN cộng sản, xuất bản năm 1974, dưới thời VC Lê Duẩn làm "Vua" ở miền bắc cộng sản, đã tuyên xưng cuộc xâm lăng của Trung cộng chiếm đoạt HOàng sa của VN, bằng cách phủ nhận chủ quyền của VN đói với HS & TS, bằng cách phủ nhận sự hiện hữu của HS & TS trong lãnh hải VN, chỉ "nhìn thấy" có "Nam Sa & Tây sa" của Trung cộng]

Ngày nay nhìn lại, không ai lại không thán phục, lại không nuối tiếc nền giáo dục VNCH,

Ngày nay, nói đến "cải tổ nền giáo dục [xã nghĩa]", hầu như mọi người, ngay cả những trí thức cộng sản & "nhà giáo dục xã hội chủ nghĩa" lão thành cực đoan nhất, những người vẫn thường vênh váo với cái "giải phóng & thống nhất" đầy tội ác của cuộc chiến tranh Hồ chí minh man rợ, đều muốn lấy nền giáo dục VNCH làm khuôn mẫu bắt chước theo ...

Rõ ràng chỉ có một nền chính trị dân chủ tự do tử tế mới có thể có một nền giáo dục, một chính sách giáo dục &  tự do nhân bản dân tộc khai phóng như nền giáo dục VNCH.

*****

Nói tóm lại, Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia dân chủ tự do.