Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013

NGUYỄN KHẮC VIỆN (Bác Si) và bày em nó như NGUYỄN KHẮC PHÊ, NGUYỄN KHẮC PHI

vybui says:
Thưa độc giả Trần Kha,
Khi tôi bỏ công viết những dòng này thì tôi tin là ông không biết nhiều lắm về chế độ CS tại VN, hay có biết cũng chỉ là biết những gì họ cho ông biết. Nếu có hơn thì cũng do sách vở, báo chí cả trong lẫn ngoài nước đề cập đến, chẳng hạn về cuộc Cải Cách Ruộng Đất mà ông và vài vị độc giả đang thảo luận.
Ông nói không sai, CCRĐ CHÍNH THỨC bắt đẩu vào ngày 19/12/1953 khi luật CCRĐ được ban hành. Nhưng trước đó, vào những năm 1951 ở Khu Tư( Thanh-Nghê-Tĩnh) thì nó đã được bắt đầu. Trước đó nữa vào năm 1949 qua một Thông Tư Liên Bộ, nó đã được đề cập đến. Nhưng thực ra, ngay từ khi Cách Mạng Tháng Tám thành công, những vùng do Việt Minh kiểm soát đã hình thành cuộc cải cách ruộng đất dù mới có tính cách sơ bộ do những nguyên nhân sau:
- Tình hình an ninh tại một số vùng làm cho người Pháp, Việt thân Pháp bỏ đi, ruộng đất của họ được phân phối cho nông dân để lôi kéo từng lớp chiếm đại đa số ở nông thôn Miền Bắc đi theo VM.
- Một số đia chủ vì sợ và có it nhiều hiểu biết về VM cũng bỏ đi và để lại ruộng đất.
-Dùng bạo lực quy kết những điền chủ là thông đồng với Pháp để cướp đoạt tài sản, ruộng đất cuả họ…
VM ngay từ những năm 1946, không những lấy đất của những thành phần trên, mà đối với những người có nhiều ruộng đang cho thuê, VM cũng đã cắt giảm điạ tô, bãi bỏ mọi khoản tiền(luá) thuê ruộng (của điền chủ). Theo tài liệu chính thức của Đảng CSVN( Đại Cương Lịch Sử VN, do Lê Mậu Hãn chủ biên, nhà xuất bản Giáo Dục, tháng 3, 2007) thì công cuộc CCRĐ đã được Đảng và CP TIẾP TỤC TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP( từ 1946), nhưng chỉ đến 1953 mới ban hành luật và phát động quy mô trên cả nước (VNDCCH).
Đây là lời phát biểu cuả HCM tại phiên họp thứ 3 Quốc Hội (khoá I) :
“….Luật CCRĐ cuả ta chí nhân, chí nghĩa, hợp tình, hợp lý. Chẳng những là cho cố nông, bần nông, trung nông ở dưới có ruộng để cày, mà đồng thời CHIẾU CỐ “đồng bào” Phú Nông, “đồng bào” Địa Chủ…”
Chiếu cố như thế nào chắc mọi người đã rõ. Ai là ‘đồng bào’ cuả tên CS HCM/ Hồ Tập Chương thì miễn bàn.
Bao nhiêu “đồng bào” cuả CS đã hiến tiền bạc, tài sản, ngay cả sinh mạng cho chúng như mẹ con bà Cát Hanh Long, cha con ông Đặng Văn Hướng, Đặng Văn Việt Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 174 khét tiếng và hàng chục, hàng trăm ngàn những người yêu nước bị giết vì thuộc thành phần trí thức thành thị, phú nông, trung nông, điền chủ ở thôn quê.
Một trường hợp khốn nạn là cụ Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm, từng là Tổng Đốc Thanh Hoá, một nhà nho trong sạch, yêu nước, dù bỏ quan về làm dân, CS cũng không tha. Năm 1954, cụ bị đấu tố, bị kết án 20 năm tù bị đưa đi “cải tạo”. Cụ đã nhịn đói cho đến chết khi bọn CS nhốt cụ vào cũi, tới bữa ăn, chúng đem cho it cơm để trong lá chuối đặt dưới đất và bắt cụ sủa gâu gâu như chó rồi mới được ăn. Dù cha CHẾT THẢM, CHẾT NHỤC như vậy, tên khốn nạn NGUYỄN KHẮC VIỆN (Bác Si) và bày em nó như NGUYỄN KHẮC PHÊ, NGUYỄN KHẮC PHI … vẫn một lòng đi theo CS và suốt đời phục vụ đắc lực cho Hồ và bè lũ. Cũng may trong số con cụ Nguyễn Khắc Niêm còn GS Nguyễn Khắc Dương, ( ĐH Đà Lạt) là đi theo đường khác, phục vụ Quốc Gia Dân Tộc, và bị đối xử vô cùng khắc nghiệt khi CS chiếm được Miền Nam.

|

AFP: Một người Đức kiện nhà cầm quyền Hà Nội

LHQ tại Geneva
LHQ tại Geneva
Bác sĩ Đức Bernhard Diehl, người đã sống sót sau 4 năm bị giam cầm tại Bắc Việt trong chiến tranh Việt Nam vừa quyết định khởi kiện nhà cầm quyền Hà Nội.
Ông Bernhard Diehl đưa ra quyết định này sau gần 40 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam.
Theo thông tin của báo Focus, bác sĩ Bernhard Diehl thuộc thành phố Mainz, 66 tuổi, trong thời gian ngắn tới đây sẽ gửi đơn khiếu nại tới Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc tại Geneva. Vị bác sĩ tâm thần muốn Hà Nội trả lại các giấy tờ và ghi chép của ông ta đã bị nhà cầm quyền tịch thu vào thời điểm đó.
Diehl bị bắt trong tháng 4 năm 1969 cùng với bốn nhân viên của cơ quan “bảo dưỡng” Malteser tại Nam Việt Nam. Ông bị tình nghi là gián điệp, nhưng theo ông, điều này hoàn toàn sai.
Sau nhiều tháng bị giam cầm, những người nước ngoài này được đưa ra Bắc Việt Nam. Ba trong số năm người Đức đã bỏ mạng vì không vượt qua nổi sự khắc khổ trong quá trình vượt rừng.
Từ mùa xuân năm 1970, Diehl đã bị biệt giam ở Hà Nội và 3 năm sau đó ông được tự do.
Đòi lại những bài thơ
Diehl muốn đòi lại những bài thơ của ông! Bernhard Diehl giết thời gian trong 3 năm bị giam giữ bằng cách làm thơ và viết những câu chuyện.
Một thời gian ngắn trước khi được tự do, giám đốc nhà tù Hỏa Lò ở Hà Nội đã tịch thu tất cả tài liệu của ông. Diehl đã viết lại một số bài thơ sau khi trở về Đức theo trí nhớ của mình. Nhưng cho đến ngày hôm nay, vị tiến sĩ bác sĩ tâm thần, 66 tuổi quyết định khởi kiện để tìm cách có lại tác phẩm của ông còn nằm ở Hà Nội.
Ông Diehl nói, “Tôi muốn có lại tất cả các bài thơ của tôi“!.
Câu chuyện về Diehl đã được nhà làm phim tài liệu Emanuel Rotstein thực hiện trong bộ phim “Die Legion – Deutscher Krieg in Vietnam“ (The Legion – German war in Vietnam ) – tam dịch là ”Quân đoàn Lê Dương, chiến tranh Đức tại Việt Nam” .
Phim tài liệu này sẽ được chiếu vào ngày 27 Tháng Mười trên làn sóng “History Channel” (Sky).
(Theo Focus: Vier Jahre Einzelhaft in Hanoi im Vietnamkrieg entführter Deutscher klagt
Sonntag, 20.10.2013, 08:55 )
Biên tập theo bản của Ngọc Châu

http://www.danchimviet.info/archives/80869/afp-mot-nguoi-duc-kien-nha-cam-quyen-ha-noi/2013/10

Đâu là nơi duy nhất, người Việt Nam không bị khinh?

|

Đâu là nơi duy nhất, người Việt Nam không bị khinh?

Tấm biển cảnh cáo gây xôn xao.
Tấm biển cảnh cáo gây xôn xao.
Nhân đọc bài viết của một người Nhật nhận xét về người Trung Quốc mà phần bình luận đăng trên Bauxite Việt Nam có liên hệ với đặc tính của người Việt Nam hiện nay, tôi muốn góp nhặt mấy mẩu chuyện tai nghe mắt thấy sau đây.
Năm 2006, một công ty của người gốc Việt ở Mỹ thuê tôi về Việt Nam làm một nghiên cứu cho một dự án đầu tư kinh tế. Vài người quen đưa tôi đi làm việc với chính quyền một vài tỉnh để tìm hiểu các kế hoạch kinh tế của địa phương. Đi đến đâu, tôi cũng nhận được một lời khuyên tương tự là, tôi nên đưa theo một người Mỹ trắng, dù người đó là một nhân viên bảo vệ hay là một lao công cho công ty tôi ở Mỹ, miễn sao người đó nói “xí bô xí ba” gì đó, rồi tôi dịch ra tiếng Việt, thì tôi mới được tiếp đón nồng hậu và nhiệt tình!Trở lại thành phố Sài Gòn, gặp một cậu “Việt kiều” 26 tuổi, sinh ở Mỹ, tốt nghiệp Cao học Anh ngữ tại Đại học Los Angeles (UCLA). Với nguyện vọng tha thiết được làm việc tại Việt Nam, cậu xin vào dạy tại một trung tâm Anh ngữ trực thuộc một trường Đại học lớn của Việt Nam. Ở đây, người ta trả lương theo giờ cho cậu ít hơn ba lần so với mấy người Tây ba lô. Họ nói, cho dù anh có trình độ và khả năng hơn hẳn mấy người Tây đó, nhưng vì anh là người “gốc Việt” nên không có… giá cao!Bản thân tôi, trong một lần trú tại một khách sạn của công ty Du lịch Tp Hồ Chí Minh, có hôm tôi gọi tiếp tân yêu cầu cử người giúp sửa đường dây internet, gọi đến lần thư ba vẫn chỉ hứa hẹn. Sau đó, khi tôi gọi và nói chuyện bằng tiếng Anh, thì cô tiếp tân rối rít “Yes, sir” và vài phút sau, một nhân viên xuất hiện! Tương tự, vài lần đi máy bay Vietnam Airlines từ Đài Loan về Việt Nam, tôi đã rút được kinh nghiệm là phải sử dụng tiếng Anh nếu muốn được phục vụ tốt và lịch sự!
Hết biết! Người Việt tự kỳ thị nhau và bị kỳ thị ngay chính ở Việt Nam!
Thế còn người nước ngoài, họ nghĩ gì về Việt Nam?
Một người tôi quen, là cán bộ lãnh đạo của một cơ quan văn hóa thành phố Hồ Chí Minh. Trong một bữa “nhậu,” ông ấy vừa nhai ngồm ngoàm cái đùi ếch, vừa thuyết trình với anh bạn người Mỹ bên cạnh tôi (tất nhiên tôi là thông dịch viên bất đắc dĩ), rằng Việt Nam tuy còn nghèo nhưng nhờ có độc lập nên giữ được phẩm giá. Ông lấy ví dụ, vừa rồi, trong một chuyến du lịch ở Mỹ, trong lúc ông bị lạc khi tham quan Hollywood, ông đã được hai viên cảnh sát Mỹ “hết sức lể phép, trân trọng, và nhiệt tình” giúp ông tìm đường. Họ luôn gọi ông bằng “sir,” tức là “ngài.” Ông kết luận, vì họ biết ông là cán bộ của Việt Nam, nên họ đã đối xử với ông một cách trọng thị như vậy!
Anh chàng Mỹ ngồi bên cạnh tôi tròn mắt và… không nói gì cả!
Nghe ông cán bộ này nói, tôi nhớ lại ba câu chuyện:
Năm 2005, tôi đưa cậu con trai 4 tuổi, trên đường về thăm Việt Nam, ghé lại tham quan và nghỉ ngơi ở Nhật ba ngày. Chúng tôi trú tại một khách sạn ở Tokyo. Thấy hai cha con chúng tôi trao đổi qua lại bằng tiếng Anh, hầu như tất cả nhân viên làm việc ở đây đều cư xử với chúng tôi một cách hết sức thân tình và trân trọng. Họ nghĩ chúng tôi là người Mỹ gốc Nhật. Thế nhưng, khi nghe tôi cải chính lại là người Việt Nam, thì thái độ họ thay đổi hẳn!
Một anh bạn tôi là một nhà giáo và một nhà báo nghiệp dư ở vùng Vịnh San Francisco kể rằng: Trong chuyến đi du lịch vùng Đông Âu như Ba Lan, Tiệp Khắc, Nga… anh luôn gặp rắc rối vì cái hộ chiếu Việt Nam của vợ anh. Lúc nào vào ra cửa khẩu của các nước này, thì cả đoàn du lịch 20 người có passport Mỹ đều cho qua một cách thoải mái, chỉ duy nhất vợ anh với hộ chiếu Việt Nam là bị tách ra vào phòng riêng xét hỏi. Lần nào anh cũng phải viết giấy bảo lãnh! Mà mấy nước này vốn là “anh em xã hội chủ nghĩa” của Việt Nam mấy năm trước đây!
Chuyện thứ ba, trong một lần du lịch tại Jakarta, Indonesia, tôi đi với một người bạn địa phương vào một câu lạc bộ khiêu vũ (dancing). Mấy cô vũ nữ nghe tôi nói chuyện bằng tiếng Anh thì vồ vập và tò ra rất tình cảm. Thế nhưng, khi nghe tôi nói là “người Việt Nam”, thì mấy cô dần dần lảng ra! Trời, ngay cả mấy cô… bán hoa mà cũng… đối với người Việt Nam như vậy!
Tôi định kể cho ông bạn cán bộ nghe ba câu chuyện này, nhưng lại thôi vì e là ông cũng không hiểu, và nếu hiểu ra thì không khéo ông lại qui cho tôi tội “theo đuôi đế quốc, xúc phạm dân tộc” thì mệt lắm!
Còn người Việt Nam xem người ngoại quốc thế nào?
Vợ chồng người bạn khác của tôi tại Hà Nội đều là “trí thức”, thuộc gia đình quyền thế và khá giả tham vấn tôi về kế hoạch mở một trường Mẫu giáo cao cấp, trong đó có qui định là chỉ nhận con em của người nước ngoài da trắng. Tôi hỏi lại vài lần chữ “da trắng” và xin được giải thích thêm. Họ nói rằng, ở Việt Nam đã có hai trường như vậy và đã tồn tại nhiều năm (?!), nói rõ là chỉ nhận học sinh người “da trắng.” Người ngoại quốc mà da màu cũng không được, thậm chí ngay cả con cái cán bộ Việt Nam cao cấp hoặc đại gia cũng không được nhận. Vợ chồng anh bạn này khẳng định, tiền bạc chỉ là một vấn đề nhỏ, điều anh chị muốn là thể hiện “đẳng cấp” của anh chị, và của cơ sở do anh chị thành lập!
Tôi sống ở Mỹ, một đất nước do người da trắng thành lập và xây dựng nên, thế nhưng trên cả nước Mỹ, không nơi nào có một trường học với qui định như vậy cả! Nếu ai đó ở Mỹ mà có cái ý tưởng như vậy, thì có lẽ trước khi bị lôi ra tòa án cho phá sản, chắc chắn là sẽ bị dư luận ném xuống loại “đẳng cấp” man rợ! Tôi không biết thật sự ở Việt Nam đang có kiểu trường “quốc tế” như vậy không, nhưng chỉ riêng thái độ tận tụy phục vụ người “da trắng” của hai vị trí thức trẻ và quyền lực Hà Nội cũng đủ để nhận ra một thế hệ “quí tộc” Việt vô cùng… quái đản!
Kề lại những câu chuyện này, một người bạn của tôi nói rằng, trên thế giới hiện nay chỉ có duy nhất một nơi mà người Việt Nam không bị khinh rẻ, đó là nước Mỹ!
Thật mỉa mai, nhưng đó là sự thật! Tôi sống ở Việt Nam 30 năm, 15 năm ở Mỹ, và đi đây đó khoảng chục nước, tôi công nhận điều anh bạn này nói. Ít ra, đây cũng là điều an ủi cho những kẻ “tha hương” – người Việt ở Mỹ như chúng tôi. Và đó cũng là lý do, mà tôi đã bỏ ý định trở lại quê hương Việt Nam sau khi học hành xong ở Mỹ, như kế hoạch của tôi ngày ra đi!
© Khánh Hưng

Thứ Hai, 28 tháng 10, 2013

Nữ biệt động Sài Gòn từng đánh nổ máy bay Mỹ_



Trích: <i>"Trong trái tim, tâm hồn và ý chí chúng ta, vẫn âm vang bài ca hào hùng của nhửng người anh hùng quả cảm biệt đông sài gòn năm xưa" </i> (nick "nhạc của tôi", nick "tuổi trẻ ấp bắc" says: 25/10/2013 at 21:41).

"anh hùng & gan dạ & quả cảm" để làm gì? "anh hùng & gan dạ & quả cảm"..., có làm nên điều gì tử tế không, mới là điều đáng kể.

Trong cuộc tiến quân vào Tiệp khắc năm 1968, trong cuộc tiến quân vào Hungaria năm 1956, mấy người lính "hồng quân Liên xô" có gan dạ dũng cảm không?
Câu trả lời là "CÓ"!

Trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, 1939-1945, quân Đúc quốc xã có anh hùng dũng cảm đối diện với cái chết để tìm chiến thắng, tiêu diệt địch quân không?
Câu trả lời rõ ràng là "CÓ"!

Nhưng cũng rất rõ ràng, cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 do Đức quốc xã gây nên vẫn là một cuộc chiến tranh xâm lăng tội ác, bị cả nhân loại lên án.

Cũng vậy cuộc chiến tranh do Liên xô gây nên xâm lăng Tiệp khắc năm 1968, xâm lăng Hungaria năm 1956 vẫn là cuộc chiến tranh tội ác.

Nói cách khác, sự dũng cảm của người lính, điều tất nhiên, rất đáng kính, không hề đem lại chính nghĩa cho cuộc chiến tranh.

- Sự dũng cảm của người lính Đức quốc xã không hề đem lại chính nghĩa cho cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 do Đức quốc xã gây nên với tham vọng chiếm đoạt châu Âu c ho nước Đức quốc xã.

Cuộc chiến tranh do Đức quốc xã gây nên vẫn bị loài người lên án là cuộc chiến tranh xâm lăng & tội ác.

- Sự dũng cảm của người lính Nga đỏ, nếu có, không hề đem lại chính nghĩa cho cuộc chiến tranh do Liên xô gây nên xâm lăng hungaria

Cuộc chiến tranh do Lien xô gây nên tại Tiệp khác 1968, tại Hungaria 1956, vẫn bị loài người lên án là cuộc chiến tranh xâm lăng & tội ác.

- Sự "dũng cảm", nếu có, của các "biệt động" cộng sản, của những tên khủng bố, những sát nhân VNDCCH chuyên nghề đặt mìn, đặt chất nổ, quăng lựu đạn vào đám đông, giết hại người dân miền nam, không hề tạo nên một thứ "chính danh" cho cuộc chiến tranh Hồ chí minh tội ác.

Muôn đời lịch sử Việt nam lên án tội ác của bọn cộng sản Hồ chí Minh & bọn cộng sản VNDCCH vong bản ngoại lai tay sai giặc tàu.

Nếu VN thoát đuọc tai họa, không bị bọn cộng sản Hồ chí Minh dâng cho tàu cộng, để người VN còn viết lịch sử VN, thì lịch sử VN sẽ đời đời ghi nhận, lên án tội ác của bọn cộng sản Hồ chí Minh & VNDCCH vong bản ngoại lai tay sai giặc tàu, cắt đất VN dâng cho tàu cộng, gây nên cuộc chiến tranh Hồ chí Minh tội ác, thảm sát hàng triệu người VN, ở miền bắc cũng như ở miền nam, bành trướng chủ thuyết mác lê tội ác vào VN, xích hóa Việt nam, dựa vào súng đạn tàu cộng, dựa vào sự chống lưng của tàu cộng, áp đặt chế độ cộng sản VNDCCH tàn ác & đê tiện lên đất nước dân tộc VN, gây nên biết bao tang thương, mất mát, tụt hậu cho đất nước dân tộc VN!

thì lịch sử VN sẽ đời đời ghi nhận, lên án tội ác của bọn cộng sản VNDCCH & Hồ chí Minh gây nên cuộc phản bội tháng 8-1945, cướp chính quyền VN, đặt chính quyền VN vào tay bọn cộng sản, từ đó gây nên biết bao tang thương, mất mát, tụt hậu cho đất nước dân tộc VN!


tuổi trẻ ấp bắc says:
Trong trái tim, tâm hồn và ý chí chúng ta, vẫn âm vang bài ca hào hùng của nhửng người anh hùng quả cảm biệt đông sài gòn năm xưa. Chúng ta quyết không phụ lòng cha anh đi trước, quyết bảo vệ những gì chúng ta đã đang và sẽ có, đó là quả ngọt và trái thơm, Quyết diệt trừ những con sâu phản động đang gieo rắc bệnh dịch rắp tâm hủy diệt các giá trị hào hùng của ẤP BẮC, VẠN TƯỜNG, KHE SANH để phủ lên cuộc sống bình yên của chúng ta màu đen chết chóc và hận thù. Các bác, các anh, các chị Biệt động thành năm xưa xin hãy yên lòng tin vào thế hệ tuổi trẻ hôm nay



02:01:pm 20/10/13 | Tác giả: Đàn Chim Việt
 
Nữ biệt động Sài Gòn từng đánh nổ máy bay Mỹ
LTS: Một bạn bình luận trên Facebook thế này: “Có nên tuyên dương “chiến công” này trên báo chí không? Đây rõ ràng là một vụ khủng bố, chiếc máy bay là máy bay dân sự và rất có khả năng là ngoài các “cố vấn Mỹ” còn có dân thường.
Qua vụ việc này có thể thấy Việt Cộng đã đi rất sớm trong việc đặt bom máy bay. Các vụ khủng bố tấn công đặt bom máy bay sau này chủ yếu từ sau 1966 và do các nhóm khủng bố Arab và Bắc Phi (và tình báo Bắc Triều Tiên) thực hiện.
Hài hước là con trai bà này sau đó lại học về Hàng không ở Mỹ và giờ làm ở Tổng công ty Hàng không Việt Nam”.
Dưới đây là chiến công của nữ biệt động Sài Gòn đăng trên tờ VnExpress.
—————————————-
Cựu biệt động Sài Gòn Thu Nguyệt kể chuyện hoạt động cách mạng năm xưa, trong buổi giao lưu hôm 18/10 tại Nhà văn hóa Phụ nữ TP HCM. Ảnh: B.T.
Cựu biệt động Sài Gòn Thu Nguyệt kể chuyện hoạt động cách mạng năm xưa, trong buổi giao lưu hôm 18/10 tại Nhà văn hóa Phụ nữ TP HCM. Ảnh: B.T.
Bà Lê Thị Thu Nguyệt, nữ chiến sĩ biệt động Sài Gòn năm xưa với bí danh Mỹ Linh, hay biệt danh Con chim sắt, là con gái gốc Sài Gòn, sinh ra tại Tân Định, quận 1. Cha là Đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương, bị lộ nên năm 1954 tập kết ra Bắc. Mẹ từng là hội viên Hội Phụ nữ cứu quốc, mắc bệnh không có thuốc chữa đã qua đời khi Nguyệt mới vài tuổi.
Ở lại Sài Gòn, cô bé được cha gửi vào nhà chú ruột. Trước khi ra Bắc tập kết, cha dặn cô ở nhà chịu khó học tập, 2 năm nữa cha sẽ về. Rồi cuộc kháng chiến kéo dài hơn suy tính của nhiều người, 20 năm sau cha con mới được gặp nhau.
Năm 14 tuổi, Nguyệt tham gia hoạt động cách mạng với nhiệm vụ giao liên, đưa người vào chiến khu, mang tài liệu công văn, vận chuyển vũ khí vào nội thành… Khi ấy Nguyệt tham gia đánh giặc ban đầu đơn giản chỉ là căm thù quân xâm lược đã khiến gia đình mình ly tán, mẹ không có thuốc chữa bệnh. Qua năm tháng hoạt động, cô đã hiểu và yêu lý tưởng của mình.
Bà Nguyệt (người đầu tiên từ trái qua) tại sân bay Lộc Ninh, 1974. Ảnh: CAND
Bà Nguyệt (người đầu tiên từ trái qua) tại sân bay Lộc Ninh, 1974. Ảnh: CAND
Nhắc đến bà Nguyệt, người ta vẫn còn nhớ đến chiến công làm phát nổ máy bay Boeing 707 của Mỹ ở tận Honolulu năm 1963. Để có thể tiêu diệt máy bay địch, đội Biệt động 159 yêu cầu Nguyệt và cán bộ bí số E8 đóng giả làm tình nhân. E8 là nhân viên điều khiển không lưu trong sân bay. Nguyệt giả làm người tình E8 để dễ ra vào sân bay, nghiên cứu mục tiêu. Cả hai mất nhiều thời gian chuẩn bị, đi xem địa thế, nắm bắt quy luật hoạt động của một số máy bay và sân bay… chờ đến khi thời cơ thuận tiện để hành động.
Vai trò tình nhân khiến Nguyệt gặp nhiều chuyện hiểu lầm. Cô bị trêu chọc, thậm chí bị vợ E8 đánh ghen… có lúc tưởng chừng bỏ cuộc. Để kế hoạch đưa mìn vào sân bay hoàn hảo, cô dàn dựng mang bụng bầu, bị bà thím bắt gặp mách chú. Người chú đau khổ khuyên: “Cha đã gửi con cho chú nuôi, mong con học hành cẩn thận, nếu con muốn lấy chồng thì về bảo chú, gả cho người ta đàng hàng đừng để ảnh hưởng đến danh dự gia đình”. Cô gái khi ấy chỉ khóc mà đáp: “Rồi có ngày con sẽ nói cho chú hiểu, con không bao giờ dám làm điều gì có lỗi với gia đình, với ba con và chú thím”.
Ngày 25/3/1963, cô mang bụng bầu chứa thuốc nổ C4 cài đồng hò hẹn giờ vào sân bay, xách theo một chiếc túi du lịch, giống túi cố vấn Mỹ thường dùng. Sau đó cô vào nhà vệ sinh, tráo “hàng” trong túi và trong bụng, rồi tiếp tục đánh tráo túi với một cố vấn Mỹ trong phòng đợi.
Theo kế hoạch, quả mìn sẽ nổ khi máy bay cất cánh 15 phút, dự kiến sẽ rơi ở Thái Bình Dương để không ảnh hưởng đến người dân ở dưới. Chiếc Boeing 707 hôm ấy chở 80 cố vấn Mỹ rời Sài Gòn sang San Francisco, quá cảnh sân bay Honolulu được 2 phút mìn mới phát nổ. Toàn bộ máy bay bị phá hỏng. Nếu như hôm ấy, chiếc đồng hồ hẹn giờ không bị trục trặc do máy bay lên độ cao 10.000 m, áp suất không khí khiến nó chạy chậm lại, thì 80 cố vấn Mỹ đã thiệt mạng.
Bà Nguyệt kể, năm ấy do điều kiện kinh tế của cách mạng khó khăn nên khi đi mua đồng hồ bà chọn chiếc rẻ tiền nhất. Chính vì thế, kết quả đã không được như mong muốn. Tuy nhiên, trận đánh này vẫn được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi lời khen ngợi qua sóng của Đài tiếng nói Việt Nam: “Không chỉ đánh Mỹ ở Việt Nam mà chúng ta còn đánh Mỹ ở ngay nước Mỹ”. Trận này cũng đã mang lại kinh nghiệm rất lớn cho những đơn vị đánh bằng thuốc nổ hẹn giờ.
Đây chỉ là một trong số rất nhiều chiến công mà bà Nguyệt thực hiện cùng đồng đội, như vụ phá hỏng chiếc trực thăng HU1A, phá hỏng kế hoạch triển lãm trưng bày sức mạnh quân sự của chính quyền Sài Gòn tháng 10/1962 ngay trước tòa chánh đô Sài Gòn…
Năm 1963, bà Nguyệt bị bắt, trải qua 11 năm trong các nhà tù từ Thủ Đức, Chí Hòa, Tân Hiệp, chuồng cọp Côn Đảo… Trên đôi chân bà vết răng chó bécgiê cắn lúc bị thẩm vấn vẫn còn hằn dấu.
Khi đất nước thống nhất, bà Nguyệt gặp lại cha. Người cha không thể hình dung con gái đã trưởng thành như thế nào. Trong mắt ông, cô vẫn là đứa con gái bé nhỏ, thậm chí cha vẫn mua bánh kẹo và búp bê làm quà cho con.
Rồi bà lập gia đình, chồng hơn 17 tuổi nên bạn bè bà phản đối. Tuy nhiên, cha đã phân tích cho cô con gái thấy cô không còn trẻ, lại suy giảm sức khỏe sau 11 năm bị giam trong nhà tù, phải lấy người chồng có sức khỏe tương đương cả hai mới có thể đảm bảo hạnh phúc gia đình. “Lấy nhau xong, nhiều lúc thấy chồng còn rất trẻ”, bà mỉm cười hạnh phúc.
Sau kết hôn, trong 4 năm bà sảy thai tới 5 lần. Bà xin nghỉ việc không lương, ra Hà Nội điều trị tại Viện Y học dân tộc, coi bệnh viện là nhà. Ngày bà vào Bệnh viện Từ Dũ sinh con đầu lòng, chồng lại được điều động ra công tác ngoài Hà Nội. Không họ hàng thân thích bên cạnh, bà phải nhờ sự giúp đỡ của hai nữ bộ đội đưa mình đến bệnh viện. Trên đường đến nhà sinh, xe chết máy. Cuối cùng, cậu con trai đầu lòng cũng ra đời trong niềm vui khôn xiết. Ba năm sau, năm 1983, bà sinh thêm cậu con trai nữa.
Cả hai con trai của bà Nguyệt đều học hành chăm chỉ. Cậu anh đã tốt nghiệp ĐH Khoa Hàng không không gian hạng giỏi ở Boston (Mỹ), tốt nghiệp thạc sĩ quản trị Kinh doanh, hiện công tác tại Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Cậu em học chuyên ngành hóa tại Anh, và đang công tác trong lĩnh vực bất động sản. Năm đầu tiên, gia đình phải viện trợ, sau đó cả hai anh em đều kiếm được học bổng và tự đi làm để lo chi phí học hành cho mình.
Vợ chồng bà luôn khuyên các con: “Cần tiếp thu khoa học kỹ thuật ở các nước tiên tiến nhưng phải luôn nhớ mình là người Việt Nam. Ra ngoài học để về phục vụ cho tổ quốc”. Cả hai con đều rất yêu thương bố mẹ.
Trưa 18/10, trời Sài Gòn nắng như đổ lửa. Tan buổi giao lưu tại Nhà văn hóa Phụ nữ thành phố, bà Nguyệt gọi điện cho cậu con út đến đón mẹ. Khoảng 15 phút sau, một thanh niên cao to dừng xe trước cổng. Thấy mẹ xách chiếc túi và ôm một bó hoa to, cậu trai tận tình đội mũ bảo hiểm và cài dây cho mẹ. Chờ mẹ ngồi ổn định, anh mới phóng xe hòa vào dòng người trên phố.
Kim Anh (VnExpress)
http://www.danchimviet.info/archives/80706/nu-biet-dong-sai-gon-tung-danh-no-may-bay-my%CC%83/2013/10/comment-page-5#comment-123478

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

Nữ biệt động Sài Gòn từng đánh nổ máy bay Mỹ

quang phan says:
Kim Anh nên viết khoe lại chuyện thời đại hung thần Võ nguyên Giáp khủng bố các học sinh Miền Nam như dưới đây nè :
Trong niên học 1961-1962, trong địa hạt tỉnh An Xuyên, “Việt Cộng đã chận các em học sinh đang đi đến trường, chọn một em nhỏ nhất trong nhóm rồi vung mã tấu chặt đứt một ngón tay của em và hăm dọa nếu còn tiếp tục đến trường thì các em sẽ chịu hình phạt như thế!” (Trích bài Liên Hoa của tác giả Phan Thịnh, Nguyệt san Làng Văn số 203 tháng 7-2000, trang 26).
Tác giả Phan Thịnh kể thêm rằng: “Toàn tỉnh An Xuyên, số học sinh bị sút giảm 20.000 em, 150 trường học phải đóng cửa, khoảng hơn 60 giáo viên bị bắt cóc hoặc bị giết! Trong niên học đó, trên toàn lãnh thổ miền Nam đã có đến 630 trường học phải đóng cửa vì sách lược khủng bố này”.
Sách lược khủng bố giáo viên và học sinh kể trên gây những hậu quả thảm khốc như thế, đến nỗi Hiệp hội các Tổ chức Sư phạm Thế giới (World Confederation of Organizations of the Teaching Profession) đã phải cử một phái đoàn đến miền Nam Việt Nam để điều tra. Bài viết của ký giả John B. Hubbell tường trình sự việc trên được đăng tải trên Reader’s Digest (số tháng 11-1968) và thành đề tài cho Phan Thịnh viết bài Liên Hoa nói trên.
Chặt hai bàn tay em bé 7 tuổi
Cũng từ bài viết đăng trên số Reader’s Digest đó của k‎‎ý giả John B. Hubbell, bài được Trung tướng TQLC Lewis Walt giới thiệu, chúng ta đọc thêm được tội ác kinh hoàng của Việt Cộng như sau :
“Viên xã trưởng cùng với bà vợ như người điên cuồng, vì một trong các đứa con của họ, một bé trai mới 7 tuổi, đã bị mất tích từ bốn ngày rồi. Họ tìm đến Trung tướng Lewis W. Walt để cầu cứu vì tin rằng đứa bé đã bị VC bắt cóc.”
“Rồi đột nhiên, thằng bé thoát ra khỏi rừng, chạy băng qua các đồng lúa để trở về làng. Thằng bé vừa chạy vừa khóc. Mẹ nó vội chạy ra, ôm nó vào lòng, và đau xót kinh hoàng khi thấy cả hai bàn tay đứa nhỏ bị chặt đứt và trên cổ nó có đeo một cái bảng, ghi những dòng chữ cảnh cáo cho cha nó.”
Thì ra Việt cộng muốn phá bỏ kỳ bầu cử sắp sửa diễn ra của VNCH nên mới cảnh cáo ông xã trưởng, hay bất kỳ người nào trong làng, cả gan đi bỏ phiếu, ông sẽ chịu những điều tệ hại hơn nữa cho những đứa con còn lại của ông ta.
Ném lựu đạn vào đêm lửa trại học sinh Qui Nhơn
Vào một đêm năm 1972, tại sân vận động Qui Nhơn, trong khi học sinh và hướng đạo sinh trường trung học Cường Để đang vui vầy với lửa trại thì tên Việt Cộng nằm vùng là Vũ Hoàng Hà quăng lựu đạn vào đám lửa trại để tàn sát những học sinh và nhà giáo trong tay không một tấc sắt! Cuộc thảm sát gây 14 học sinh bị mất mạng và một số bị thương. Cô giáo sư Pháp văn Đặng Thị Bạch Yến, có giọng ca thật điêu luyện như ca sĩ chuyên nghiệp, đến để vui lửa trại với các em trại sinh, bị chết ngay tức khắc. Cô chết đi tuổi chỉ vừa 30, để lại ba đứa con 4 tuổi, 2 tuổi và 1 tuổi mồ côi mẹ. Chồng cô là Giáo sư Anh văn Tạ Quang Khánh bị thương nặng. Khi xe cứu thương đến, ông chân bước lên xe, tay ôm mớ ruột bị lòi ra ngoài, thân mang đầy vết lựu đạn!
Một nhân chứng cho biết thủ phạm Vũ Hoàng Hà leo qua nấp ở chùa Long Khánh và được cơ sở nằm vùng của Mặt trận Giải phóng Miền Nam đưa vào mật khu lẩn trốn. Sau khi chiến thắng miền Nam, Vũ Hoàng Hà được phong Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Định kiêm Ủy viên Trung ương Đảng. Sau này, các báo Việt Cộng đổ vấy rằng vụ thảm sát đó là do nhóm Fulro của Đồng bào Thượng gây ra!
Câu chuyện do Giáo sư Nguyễn L‎ý Tưởng tường thuật, ông là bạn học tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế đồng khóa với vợ chồng Giáo sư Tạ Quang Khánh (Theo nguồn tin: Vietnam Library Net).
Pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy
Ngày 9-3-1973, một ngày đầy máu và nước mắt đến với trường tiểu học Cai Lậy, tỉnh Định Tường. Thủ phạm là bọn Việt cộng đã dùng súng cối 82 ly, do Trung Cộng sản xuất, bắn vào trường vào lúc 12g55’. Số thương vong theo Tướng Lâm Quang Thi trong quyển The death of South Vietnam: an autopsy (xuất bản năm 1986) là 34 em chết và 70 bị thương, theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ: 32 tử vong và 55 bị thương.
Cuộc thảm sát ở Cai lậy gây thương cảm khắp nơi. Khắp miền Nam, lễ tưởng niệm và lạc quyên được tổ chức để an ủi và giúp đỡ gia đình bị nạn. Nhạc sĩ Anh Bằng viết bài nhạc khóc các em học sinh Cai Lậy có những câu như sau: “Hỡi Bé thơ ơi, sao tội tình gì Em lại bỏ đi, Em lại bỏ đi? Kìa thầy giảng bài tình thương trong lớp. Bạn bè cùng ngồi chăm chỉ lắng nghe. Sao Em vội bỏ mái trường ngày xưa thân mến, vội bỏ ra đi?”
(Trích )

  1. quang phan says:
    “Đây chỉ là một trong số rất nhiều chiến công mà bà Nguyệt thực hiện cùng đồng đội, như vụ phá hỏng chiếc trực thăng HU1A, phá hỏng kế hoạch triển lãm trưng bày sức mạnh quân sự của chính quyền Sài Gòn tháng 10/1962 ngay trước tòa chánh đô Sài Gòn “- Kim Anh
    Âm mưu giết 80 viên cố vấn Mỹ nhưng thất bại thế mà cũng khoe ! Lại còn ca ngợi đó là chiến công ?! Hèn chi tướng lèo Võ nguyên Giáp mặc dù nướng hàng triệu tên lính nhưng vẫn được Đảng bợ lên làm “thiên tài quân sự” ! Kim Anh lại còn tuyên truyền bịp bợm thêm là ” phá hỏng kế hoạch triển lãm vũ khí “. Thiệt là nói láo mà không biết ngượng mồm ! Hôm đó, trái lựu đạn do bọn ác quỷ Việt cộng ném vào nơi đông đảo đồng bào đang đứng xem, nhưng bị một người lính gác liều mình hy sinh nhào tới ôm lấy và nhảy vào buồng sau của chiếc thiết vận xa, tránh cho đồng bào khỏi bị thiệt mạng. Cuộc triển lãm sau đó lại tiếp tục. Người lính anh hùng này sau đó được tổng thống Ngô Đình Diệm tuyên dương và thăng cấp .

Nữ biệt động Sài Gòn từng đánh nổ máy bay Mỹ

LTS: Một bạn bình luận trên Facebook thế này: “Có nên tuyên dương “chiến công” này trên báo chí không? Đây rõ ràng là một vụ khủng bố, chiếc máy bay là máy bay dân sự và rất có khả năng là ngoài các “cố vấn Mỹ” còn có dân thường.
Qua vụ việc này có thể thấy Việt Cộng đã đi rất sớm trong việc đặt bom máy bay. Các vụ khủng bố tấn công đặt bom máy bay sau này chủ yếu từ sau 1966 và do các nhóm khủng bố Arab và Bắc Phi (và tình báo Bắc Triều Tiên) thực hiện.
Hài hước là con trai bà này sau đó lại học về Hàng không ở Mỹ và giờ làm ở Tổng công ty Hàng không Việt Nam”.
Dưới đây là chiến công của nữ biệt động Sài Gòn đăng trên tờ VnExpress.
|

—————————————-
Cựu biệt động Sài Gòn Thu Nguyệt kể chuyện hoạt động cách mạng năm xưa, trong buổi giao lưu hôm 18/10 tại Nhà văn hóa Phụ nữ TP HCM. Ảnh: B.T.
Cựu biệt động Sài Gòn Thu Nguyệt kể chuyện hoạt động cách mạng năm xưa, trong buổi giao lưu hôm 18/10 tại Nhà văn hóa Phụ nữ TP HCM. Ảnh: B.T.
Bà Lê Thị Thu Nguyệt, nữ chiến sĩ biệt động Sài Gòn năm xưa với bí danh Mỹ Linh, hay biệt danh Con chim sắt, là con gái gốc Sài Gòn, sinh ra tại Tân Định, quận 1. Cha là Đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương, bị lộ nên năm 1954 tập kết ra Bắc. Mẹ từng là hội viên Hội Phụ nữ cứu quốc, mắc bệnh không có thuốc chữa đã qua đời khi Nguyệt mới vài tuổi.
Ở lại Sài Gòn, cô bé được cha gửi vào nhà chú ruột. Trước khi ra Bắc tập kết, cha dặn cô ở nhà chịu khó học tập, 2 năm nữa cha sẽ về. Rồi cuộc kháng chiến kéo dài hơn suy tính của nhiều người, 20 năm sau cha con mới được gặp nhau.
Năm 14 tuổi, Nguyệt tham gia hoạt động cách mạng với nhiệm vụ giao liên, đưa người vào chiến khu, mang tài liệu công văn, vận chuyển vũ khí vào nội thành… Khi ấy Nguyệt tham gia đánh giặc ban đầu đơn giản chỉ là căm thù quân xâm lược đã khiến gia đình mình ly tán, mẹ không có thuốc chữa bệnh. Qua năm tháng hoạt động, cô đã hiểu và yêu lý tưởng của mình.
Bà Nguyệt (người đầu tiên từ trái qua) tại sân bay Lộc Ninh, 1974. Ảnh: CAND
Bà Nguyệt (người đầu tiên từ trái qua) tại sân bay Lộc Ninh, 1974. Ảnh: CAND
Nhắc đến bà Nguyệt, người ta vẫn còn nhớ đến chiến công làm phát nổ máy bay Boeing 707 của Mỹ ở tận Honolulu năm 1963. Để có thể tiêu diệt máy bay địch, đội Biệt động 159 yêu cầu Nguyệt và cán bộ bí số E8 đóng giả làm tình nhân. E8 là nhân viên điều khiển không lưu trong sân bay. Nguyệt giả làm người tình E8 để dễ ra vào sân bay, nghiên cứu mục tiêu. Cả hai mất nhiều thời gian chuẩn bị, đi xem địa thế, nắm bắt quy luật hoạt động của một số máy bay và sân bay… chờ đến khi thời cơ thuận tiện để hành động.
Vai trò tình nhân khiến Nguyệt gặp nhiều chuyện hiểu lầm. Cô bị trêu chọc, thậm chí bị vợ E8 đánh ghen… có lúc tưởng chừng bỏ cuộc. Để kế hoạch đưa mìn vào sân bay hoàn hảo, cô dàn dựng mang bụng bầu, bị bà thím bắt gặp mách chú. Người chú đau khổ khuyên: “Cha đã gửi con cho chú nuôi, mong con học hành cẩn thận, nếu con muốn lấy chồng thì về bảo chú, gả cho người ta đàng hàng đừng để ảnh hưởng đến danh dự gia đình”. Cô gái khi ấy chỉ khóc mà đáp: “Rồi có ngày con sẽ nói cho chú hiểu, con không bao giờ dám làm điều gì có lỗi với gia đình, với ba con và chú thím”.
Ngày 25/3/1963, cô mang bụng bầu chứa thuốc nổ C4 cài đồng hò hẹn giờ vào sân bay, xách theo một chiếc túi du lịch, giống túi cố vấn Mỹ thường dùng. Sau đó cô vào nhà vệ sinh, tráo “hàng” trong túi và trong bụng, rồi tiếp tục đánh tráo túi với một cố vấn Mỹ trong phòng đợi.
Theo kế hoạch, quả mìn sẽ nổ khi máy bay cất cánh 15 phút, dự kiến sẽ rơi ở Thái Bình Dương để không ảnh hưởng đến người dân ở dưới. Chiếc Boeing 707 hôm ấy chở 80 cố vấn Mỹ rời Sài Gòn sang San Francisco, quá cảnh sân bay Honolulu được 2 phút mìn mới phát nổ. Toàn bộ máy bay bị phá hỏng. Nếu như hôm ấy, chiếc đồng hồ hẹn giờ không bị trục trặc do máy bay lên độ cao 10.000 m, áp suất không khí khiến nó chạy chậm lại, thì 80 cố vấn Mỹ đã thiệt mạng.
Bà Nguyệt kể, năm ấy do điều kiện kinh tế của cách mạng khó khăn nên khi đi mua đồng hồ bà chọn chiếc rẻ tiền nhất. Chính vì thế, kết quả đã không được như mong muốn. Tuy nhiên, trận đánh này vẫn được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi lời khen ngợi qua sóng của Đài tiếng nói Việt Nam: “Không chỉ đánh Mỹ ở Việt Nam mà chúng ta còn đánh Mỹ ở ngay nước Mỹ”. Trận này cũng đã mang lại kinh nghiệm rất lớn cho những đơn vị đánh bằng thuốc nổ hẹn giờ.
Đây chỉ là một trong số rất nhiều chiến công mà bà Nguyệt thực hiện cùng đồng đội, như vụ phá hỏng chiếc trực thăng HU1A, phá hỏng kế hoạch triển lãm trưng bày sức mạnh quân sự của chính quyền Sài Gòn tháng 10/1962 ngay trước tòa chánh đô Sài Gòn…
Năm 1963, bà Nguyệt bị bắt, trải qua 11 năm trong các nhà tù từ Thủ Đức, Chí Hòa, Tân Hiệp, chuồng cọp Côn Đảo… Trên đôi chân bà vết răng chó bécgiê cắn lúc bị thẩm vấn vẫn còn hằn dấu.
Khi đất nước thống nhất, bà Nguyệt gặp lại cha. Người cha không thể hình dung con gái đã trưởng thành như thế nào. Trong mắt ông, cô vẫn là đứa con gái bé nhỏ, thậm chí cha vẫn mua bánh kẹo và búp bê làm quà cho con.
Rồi bà lập gia đình, chồng hơn 17 tuổi nên bạn bè bà phản đối. Tuy nhiên, cha đã phân tích cho cô con gái thấy cô không còn trẻ, lại suy giảm sức khỏe sau 11 năm bị giam trong nhà tù, phải lấy người chồng có sức khỏe tương đương cả hai mới có thể đảm bảo hạnh phúc gia đình. “Lấy nhau xong, nhiều lúc thấy chồng còn rất trẻ”, bà mỉm cười hạnh phúc.
Sau kết hôn, trong 4 năm bà sảy thai tới 5 lần. Bà xin nghỉ việc không lương, ra Hà Nội điều trị tại Viện Y học dân tộc, coi bệnh viện là nhà. Ngày bà vào Bệnh viện Từ Dũ sinh con đầu lòng, chồng lại được điều động ra công tác ngoài Hà Nội. Không họ hàng thân thích bên cạnh, bà phải nhờ sự giúp đỡ của hai nữ bộ đội đưa mình đến bệnh viện. Trên đường đến nhà sinh, xe chết máy. Cuối cùng, cậu con trai đầu lòng cũng ra đời trong niềm vui khôn xiết. Ba năm sau, năm 1983, bà sinh thêm cậu con trai nữa.
Cả hai con trai của bà Nguyệt đều học hành chăm chỉ. Cậu anh đã tốt nghiệp ĐH Khoa Hàng không không gian hạng giỏi ở Boston (Mỹ), tốt nghiệp thạc sĩ quản trị Kinh doanh, hiện công tác tại Tổng công ty Hàng không Việt Nam. Cậu em học chuyên ngành hóa tại Anh, và đang công tác trong lĩnh vực bất động sản. Năm đầu tiên, gia đình phải viện trợ, sau đó cả hai anh em đều kiếm được học bổng và tự đi làm để lo chi phí học hành cho mình.
Vợ chồng bà luôn khuyên các con: “Cần tiếp thu khoa học kỹ thuật ở các nước tiên tiến nhưng phải luôn nhớ mình là người Việt Nam. Ra ngoài học để về phục vụ cho tổ quốc”. Cả hai con đều rất yêu thương bố mẹ.
Trưa 18/10, trời Sài Gòn nắng như đổ lửa. Tan buổi giao lưu tại Nhà văn hóa Phụ nữ thành phố, bà Nguyệt gọi điện cho cậu con út đến đón mẹ. Khoảng 15 phút sau, một thanh niên cao to dừng xe trước cổng. Thấy mẹ xách chiếc túi và ôm một bó hoa to, cậu trai tận tình đội mũ bảo hiểm và cài dây cho mẹ. Chờ mẹ ngồi ổn định, anh mới phóng xe hòa vào dòng người trên phố.
Kim Anh (VnExpress)

Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2013

Stephen B. Young_Ai thống trị Việt Nam ngày nay Đảng Cộng sản hay là Hán Ngụy?

Ai thống trị Việt Nam ngày nay
Đảng Cộng sản hay là Hán Ngụy?
Stephen B. Young
Có một tổ chức hiện nay cai trị Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau như
là vua chúa Phong kiến ở Tàu hay ở Âu châu thời Trung cổ . Một bộ máy võ
trang tập trung các quyền hành lớn trong tay; không được dân bầu lên, và dân tuyệt đối không có quyền kiểm soát hay phê
bình. Tổ chức này mang tên là “Đảng Cộng Sản Việt Nam”.
Nhưng, thực sự, tổ chức nầy có phải là một Đảng đúng nghĩa của một
đảng hay không?
Đáng lẽ ra một Đảng chánh trị phải có một chánh nghĩa, một sức mạnh
do một lý tưởng, một nền tảng triết lý hay lý thuyết, một khuynh hướng
thể hiện nguyện vọng của đảng viên để hành dộng nhằm phục vụ đất nước và dân tộc
của mình.
Vì vậy, nếu cái gọi là Đảng Cộng Sản mà không phải là một Đảng đúng nghĩa, thì bộ
máy đó là cái gi?
Một tập thể những người có chung một chí hướng tôn thờ người ngoài,
một công ty làm ăn, một tổ chức mafia khai thác thị trường đất nước của họ chăng?
Như vậy chúng ta có vài tiêu chuẩn để đánh giá cái gọi là Đảng Cộng
Sản bây giờ, đó là một đảng phái hay chỉ là một bọn làm ăn thiếu lương thiện?
Tôi đồng ý đã có thời gian cái goi là đảng Cộng Sản ngày nay có những
hoạt động như là đảng phái đúng nghĩa. Nhưng những hoạt động ấy tốt xấu, hay dở,
có lợi hay có hại cho đất nước Việt nam là chuyện khác .Tôi nói đó là một “thứ
đảng phái” vì lúc ấy đảng Cộng Sản theo ý thức hệ Mác-Lê, vận dụng chủ thuyết
mác-lê làm cách mạng võ trang cướp chánh quyền thực dân. Tiếp theo, đảng cộng sản
phát động cuộc cách mạng xã hội, tiến hành giai cấp đấu tranh, đấu tố địa điền
chủ, ám sát công chức, trí thức, lãnh đạo tôn giáo, tịch thâu tài sản của người
giàu có để sau cùng đưa giới lao động, những tên du thủ du thực, lên cầm quyền và khi vào
Bộ chánh trị, lại lãnh đạo đất nước, dân tộc. Hành động của đảng cộng sản lúc
đó có mục đích thi hành “chính nghĩa xã hội chủ nghĩa ” theo ý hệ
Mác-Lê.
Nhưng từ lâu lắm rồi, cái gọi là đảng Cộng Sản không còn giống như
trước đó nữa. Nó đã hoàn toàn biến chất để trở thành một cái gì khác hẳn. Tức nó không phải cộng sản, không mang nội dung mác-lê, không chủ trương giai cấp đấu tranh để tiến
lên xã hội công bằng, người không bốc lột người, như kinh điển mác-lê dạy người
cộng sản.
Cách đây vài năm, ông Đặng Quốc Bảo, Khoa giáo trung ương, trong một báo cáo phổ biến hạn chế cho đảng viên cao cấp, nói rằng “hiện tại đảng Cộng Sản không còn chính nghĩa chút nào vì thuyết Mác-Lê lỗi thời và cũng không đúng, không khoa học”. Theo ông Bảo, thì đảng cộngsản không nên áp dụng thuyết ấy nữa. Hai ông Mác và Lê đã nghĩ sai về vũ trụ, về trời đất, về đời sống nhân loại. Vậy người thông minh phải vứt bỏ chủ thuyết Mác-Lê.
Nếu ông Bảo đánh giá lý thuyết Mác-Lê đúng, thì đảng Cộng Sản không
có một chính nghĩa nào để vẫn khẳng định tiếp tục đưa Việt nam đi theo con đường
của mác-lê.
Vậy đảng cộng sản là cái gì? Chỉ là một tập hợp những người đầy
tham vọng và quyền lực. Họ không khác gì một thứ giặc cướp đối với nhân dân.
Ông Bảo nói thêm rằng “tổ chức anh chị em cán bộ phải giử quyền cai
trị Việt nam vài năm nữa, vì nếu không có một lực lượng mạnh giử ổn định chính
trị xã hội, thì nước sẽ loạn và dân sẽ khổ”.
Lấy sự ổn định làm chính nghĩa của mình không có ý nghĩa tốt đẹp vì hoàn toàn thiếu thuyết phục. Chính nghĩa ổn định, nhiều người bình thường có thể nói và thi hành. Cần gì phải có cái gọi là đảng Cộng Sản với 3 triệu đảng viên, với vai trò lãnh đạo toàn diện đất nước và xã hội ? Quân Đội làm được. Phật Giáo làm được. Việt Quốc làm được. Ai cũng hy vọng làm được. Cái gọi là đảng Cộng Sản không thể tự cho là chỉ có họ mới làm được.
Theo tuyên truyền của đảng cộng sản, trong quá khứ, họ có công đức lớn để đứng trên và trước mọi người khác. Tức họ cho rằng họ có vai trò lịch sử Có đúng như vậy không?
Để trả lời, giờ đây, Bộ Chính Trị hãy tổ chức gọi hồn các đồng chí của họ đã chết, chết vì hi sinh hay chết oan vì đảng cũng được, để hỏi công việc đảng làm. Rồi, có lẽ họ nên gọi hồn để hỏi cái gọi là đảng cộng sản thật sự có công đức với dân tộc Việt Nam hay không? Rồi, họ có thể gọi hồn để hỏi đảng cộng sản tại sao ngày nay vẫn nói đi theo mác-lê, mà trên thực tế không thấy xã hội việt nam chuyển biến theo mô hình” chính nghĩa Mác-Lê.” một chút nào nữa. Vậy thì cái đảng này nên tự giải tán, và có mang tội với đất nưóc, với dân tộc
không?
Chúng tôi cũng có thể gọi hồn như Bộ Chính Trị. Chúng tôi có thể gọi hồn các vị cũng nằm xuống, vì nhiều lý do khác nhau, hỏi họ về công đức của cái gọi là đảng Cộng Sản.
Thí dụ, hỏi Đức Huỳnh Giáo Chủ của Phật Giáo Hòa Hảo, hỏi ông Trương Tử Anh, Đảng trưởng Đại Việt Quốc Dân Đảng , ông Lý ĐôngA, Thư ký trưởng Đảng Duy Dân, các nhân sĩ yêu nước Ngô Đình Khôi, Nguyễn văn Bông, Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Hồ văn Ngà, Phan văn Hùm, Nguyễn văn Sâm, … và những người dân Huế chết hồi Tết Mậu Thân, vân, vân, … cho đến 1 ,2 triệu người Việt nam bình thường khác, chết trên biển cả, trong rừng sâu, trong các trại tù rải rác khắp cả nước.
Gọi hồn tất cả những người này về và lắng tai nghe họ nói số phận của dân tộc Việt Nam từ khi Đảng Cộng Sản vận dụng “chính nghĩa Mác-Lê” để cướp lấy quyền lãnh đạo đất nước và giử độc tôn cho đảng .
Xin trả lời: Công đức ở đâu?
Bằng chứng thứ hai cho thấy cái gọi là đảng Cộng Sản là một đảng thì đảng ấy có hành động cụ thể như thế nào?
Ngoài sự hiểu biết, sự suy nghĩ, sự tính toán của con người, các
hành động của người đó phải cho chúng ta thấy rõ, một cách minh bạch, để kết luận
người đó tốt hay xấu, giỏi hay dở, đạo đức hay gian ác, cần tồn tại hay nên vứt
đi thôi ?
Cái gọi là đảng Cộng Sản đó, cách đây 8 năm, đã tự động hiến dâng đất
đai của tổ tiên đểlại cho Bắc Triều mới . Và cả biển nữa! Tại sao?
Để đáp ứng sự đòi hỏi của Bắc Triều mới? Phải.
Ở điểm này, chúng ta hảy nhìn rõ. Cái gọi là đảng Cộng Sản đó vì
nhu cầu tồn tại đã dâng đất,dâng biển cho Bắc kinh. Đây là nhu cầu sanh tử. Đảng cộng sản phải làm một việc tội lỗi như vậy chỉ vì đảng lo sợ nhân dân Việt nam hỏi tội của họ đối với tổ quốc và nhân dân từ trước đến giờ. Mà nhân dân hỏi tội có nghĩa là đảng sẽ bị mất quyền cai trị. Hoặc một vụ Thiên An Môn Việt Nam sẽ xảy ra .Trước nỗi ám ảnh mất quyền lực, đảng cộng sản cần sự ủng hộ, sự tiếp tay của Bắc Triều mới, mặc dầu có tổn hại đến
quyền lợi tối thượng của Quốc gia.
Như vậy đảng cộng sản ở Hà nội không thể tự cho là một đảng cóchính nghĩa yêu nước được, mà phải bị kết án là một đảng bán nước mới đúng.
Nếu đảng Cộng Sản Hà nội chuyên tâm phục vụ cho đòi hỏi, tham vọng của Bắc Triều mới, thì Việt nam tất nhiên phải lâm nguy làm thân nô lệ cho Hán Tộc. Nếu chỉ có riêng cái đảng cộng sản làm nô lệ hán tộc thì chúng ta hà tất phải tốn lời.
Thực tế ở Việt nam cho ta thấy công an, tình báo của Việt Nam đều do công an, tình báo
Trung Quốc đào tạo và cố vấn. Nhờ đó mà công an, tình báo Hà nội mới có
đủ bản lãnh đàn áp những người dân chủ ở Việt nam, đàn áp dân oan nạn nhân của
những vụ đất đai bị đảng cộng sản tước đoạt, đàn áp những vụ biểu tìng chống
Trung quốc xăm chiếm đất đai bằng vũ lực và thô bạo.
Nhìn lại lịch sử Việt nam thì từ thời Ngô Quyền đến nay, chỉ có vài
nhà vua Việt nam theo Bắc Triều một cách xấu hổ như vậy. Có Nhà Mạc phải xin sự
ủng hộ của Hoàng đế phương Bắc để đối phó với Nhà Lê. Có vua Lê Chiêu Thống xin
Trung Quôc gởi binh qua Hà nội để đánh anh em Nhà Tây Sơn. Có vua Gia Long và
Minh Mạng lấy y thức hệ Tống Nho của Nhà Thanh bên Tàu để làm nền tảng đạo lý
xây dựng uy quyền cho Nhà Nguyễn . Nhưng các ông vua này không làm mất đất, mất biển
vào tay ngoại bang chỉ vì quyền lợi riêng tư như đảng cộng sản ngày nay.
Cầu viện thường hay lệ thuộc tư tưởng của kẻ khác, khó tránh khỏi bị
dẩn đến mất chánh nghĩa quốc gia. Phải chăng vì thế mà Nhà Mạc đã không thắng
Nhà Lê, vua Lê Chiêu Thống thua Quang Trung Nguyẽn Huệ. Riêng Nhà Nguyễn vì chọn
lựa sai lầm học thuyết lỗi thời mà cứ khăng khăng ôm giữ nên thua người Pháp. Tức
một thứ lệ thuộc tư tưởng.
Khi có được chỗ dựa mạnh là Bắc kinh, cái gọi là đảng Cộng Sản sẽ
đánh bại được toàn dân Việt nam chăng? Tức đảng cộng sản vỉnh viễn đàn áp, bốc lột
nhân dân chăng?
Mới đây khi nghe tin Bắc Kinh tổ chức Hoàng Sa và Trường Sa trở
thành môt đơn vị hành chánh mới trực thuôc Tỉnh Hải nam, lập tức xảy ra nhiều
cuộc biểu tình của dân chúng thanh niên, sinh viên ở TP Hồ Chí Minh, ở Hà nội,
chống chánh sách xăm lược của Trung Quốc. Cái gọi là Đảng Cộng Sản không dám
lên tiếng phản đối kẻ cướp đất, trái lại thô bạo đàn áp dân chúng công khai bày tỏ lòng yêu nước. Khí thế của nhân dân Việt nam bây giờ làm cho đảng cộng sản Hà nội bắt đầu lo sợ.
Nếu đảng cộng sản khôn ngoan thì hảy thấy ở đây, tức ở nhân dân, mới là chổ dựa
vửng chắc hơn thế của Trung Quốc.
Nhưng cái gọi là Đảng Cộng Sản nghe theo ai?
Buồn mà nói. Vì nói cho đúng thì phải nói lớn và nói rỏ phe nhóm
cai trị Việt Nam hiện nay là một bọn Hán Ngụy.
Tiếc vì chúng tôi biết chắc chắn có nhiều đảng viên của cái gọi là
Đảng Cộng Sản không muốn như vậy. Họ thương dân, yêu nước thật lòng. Nhưng họ
lo sợ, có thể vì bất lực, cho sự an nguy của bản thân và gia đình trước những
thủ đoạn khéo léo, gian ác, đê hèn của lực lượng Công An, Tình Báo đang có mặt
kắp nơi rình rặp.
Bọn Hán Ngụy thật sự không có nhiều người, nhưng họ có thế mạnh và
nhiều tiền bạc. Họ quyết tâm giữ quyền lực cai trị đất nước mãi mãi. Họ sẽ làm
cái gì phải làm để không mất địa vị cầm quyền, tức quyền làm ăn, làm giàu của họ.
Lệ thuộc Bắc Kinh, đối với họ, là một giá phải trả, họ chấp nhận trả,
để có phương tiện ổn định xã hội chính trị Việt nam, tức duy trì chế độ độc
tài toàn trị. Ổn định là cho quyền lợi của họ. Đất nước đối với họ chỉ là
phương tiện trao đổi.
Trung Quốc có một triết lý bình định thiên hạ từ đời Tần Thủy
Hoàng. Ông ấy lấy ý kiến của phái Pháp Gia gồm lý thuyết âm dương, ngũ hành để
kiến tạo thái hòa. Làm chính trị như vậy không theo sự giảng dạy của Khổng
Mạnh, trái lại, đưa ra chính sách đại đoàn kết, giữ phép nước dưới sự lãnh đạo
đọc tôn theo một vị hoàng đế. Đó là thuyết của Mặc Địch.
Cái đạo chính trị này – “ hoàng đế chính thuyết ”– là lý thuyết xây
dựng xã hội không cần nghe ý dân. Đi từ trên xuống, không phải từ dân lên. Ngày nay là tập trung dân chủ, tức dân chủ xã hội chủ nghĩa và tư tưởng Hồ chí minh. Hoàng Đế nghe trời,
ra lịnh và thiên hạ phải tuân theo. Dân không nghe theo thì sẽ bị phạt, nặng nhẹ
tùy theo mức độ của sự phản bội, bất hiếu đối với chế độ.
Một ông Hoàng Đế không cần đức, không cần uy tín mà vẫn giữ được ổn
định xã hội. Hiếu nghĩa thay thế nhân nghĩa. Cấp trên nói cái gì thì cấp dưới
vâng dạ theo răm rắp. Nói vô phép, mất dạy, thì bị phạt, không được phần thưởng.
Đạo làm hoàng đế có mục đích lấy ý trời và qua cơ cấu hành chánh,
ép thiên hạ vâng lịnh làm theo ý đó, mặc cho họ muốn hay không.
Trong lịch sử Việtnam, các Nhà Lý, Trần và Lê không lấy đạo Hoàng Đế
của Bắc Triều để trị dân. Nhà Lý và Nhà Trần theo đạo Phật. Nhà Lê cho đến Vua
Lê Thánh Tôn theo quan điểm nhân nghĩa do Nguyễn Trãi viết ra.
Vua Lê Thánh Tôn bắt đầu theo chủ nghĩa Bắc Triều , tức lấy Tống
Nho bênh vực ngôi vị Hoàng Đế một cách mù quáng với đạo hiếu nghĩa cha mẹ, vua
chúa. Đến Nhà Mạc, Chúa Trịnh, thì ảnh hưởng Tống Nho ở cấp quan văn và các đại
gia đình quan chức mở rộng. Nhà Nguyễn áp dụng Tống Nho và quan điểm hoàng đế,
đưa triều đình Huế đi theo gương Nhà Thanh bên Tàu.
Trước đây, cái gọi là đảng Cộng Sản chụp mũ những người Việt nam
không Cộng Sản mà hợp tác với Mỹ Quốc để giữ độc lập cho miền Nam Việt Nam là
“Mỹ Ngụy” .
Bây giờ, nhìn về quá khứ thì chúng ta có thể đánh giá ai có công lớn
hơn cho Dân Tộc Việt nam: Mỹ Ngụy hồi đó hay Hán Ngụy bây giờ?
Người Mỹ khi họ giúp các Chính Phủ Việt nam Cộng Hòa, khi họ làm cố
vấn cho Chính phủ và quân đội quốc gia, họ thật sự muốn gì? Họ khuyến khích người
Quốc Gia làm gì? Họ đòi hỏi Chính Phủ Sài gòn có chính sách nào?
Nói chung, người Mỹ từ Tổng Thống Eisenhower cho đến Tổng Thống
Nixon, từ Đại Sứ Elbridge Durbrow cho đến Đại Sứ Ellsworth Bunker, tất cả đều
yêu cầu Chính Phủ Sài gòn lo cho dân, áp dụng chế độ hiến trị, tổ chức các cuộc bầu cử từ xã ấp đến trung ương, trong sạch, dân chủ, cải cách ruộng đất, phát triển kinh tế, mở rộng
giáo dục theo tôn chỉ “nhân bản, khoa học, khai phóng ” …
Đối với Mỹ thì ý dân là hơn ý trời. Mỹ không bao giờ theo “hoàng đế chính thuyết ”.
Như vậy làm Mỹ Ngụy là chọn phương pháp lo cho dân, cho quê hương
Việt nam, cho văn hóa, đạo đức dân tộc. Người Mỹ đến Việt nam, không ở lại Việt nam. Và
“dân ngụy.” không hiến dâng đất dai, biển cả cho ngoại bang. Hơn nữa, trong lịch
sử, người Mỹ không làm thuộc địa, không làm Thái thú, chỉ làm bạn đồng minh
giai đoạn.
Còn người Việt nào bây giờ làm Hán Ngụy thì phục vụ ai? Họ có
lo sợ số phận Tổ quốc của họ không? Hay chỉ có chung một thứ Tập hợp những người
cùng chí hướng tôn thờ quyền lợi bản thân mà thôi?
Stephen B. YOUNG

Sơn Diệu Mai_Những cơ chế của sự nhầm lẫn (3)

Những cơ chế của sự nhầm lẫn (3)

Sơn Diệu Mai
vomong1Ngược lại trăm phần trăm, Thiên An Môn Việt Nam xẩy ra trong bóng đêm, tại các tỉnh, trước hết là Thái Bình, nơi các phóng viên báo chí thế giới bị ngăn cấm đi tới.
Giải ảo là thứ quả chín muộn
Sự thất vọng của con người thường được biểu đạt bằng hai danh từ: Giải ảo và Vỡ mộng.
Các dịch giả Việt Nam dùng hai danh từ này tuỳ theo ngữ cảnh của nhóm từ Pháp: désillusionné, désenchanté, désabusé, déçu.
Tôi chọn hai từ désenchanté và désabusé để làm bệ đỡ cho sự Giải ảo và Vỡ mộng của người Việt Nam sau cuộc chiến.
Xét trên phương diện tâm lý, cuộc chiến tranh Việt-Mỹ có thể ví như một cơn nhập đồng tập thể. Một cá nhân, trong trạng thái nhập đồng, có thể làm được những điều mà bình thường họ không thể nào làm nổi. Khi trạng thái nhập đồng chấm dứt, con người cũng đánh mất khả năng ấy.
Ngô Thị Tuyển, nữ dân quân tham gia chiến đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng (1965) – Nguồn ảnh: Phạm Kỉnh
Ngô Thị Tuyển, nữ dân quân tham gia chiến đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng (1965) – Nguồn ảnh: Phạm Kỉnh
Ví dụ rõ ràng nhất là trường hợp anh hùng Ngô thị Tuyển.Trong một cuộc máy bay Mỹ oanh tạc, để tiếp đạn cho các pháo thủ, Ngô thị Tuyển đã vác những hòm đạn nặng hơn trọng lượng thân thể của chị nhiều. Bởi vì cuộc chiến đấu kéo dài, hành động anh hùng của Ngô thị Tuyển diễn ra trước mắt tất cả mọi người, từ dân chúng, đồng đội đến các chiến sỹ pháo binh. Thế nhưng, khi các nhà báo Hà Nội yêu cầu chị diễn lại để quay phim, chị Tuyển không làm được nữa. Trước hết, cần phải nói rằng các nhà báo lúc ấy hoặc ấu trĩ hoặc hồ đồ vì không hiểu điều này: Cốt lõi hành động của Ngô thị Tuyển là lòng yêu nước cộng với bản năng tồn sinh. Vào lúc bom đạn tơi bời như thế, máy bay giặc quần thảo trên trời, tiếng rú rít của máy bay, tiếng nổ của đạn pháo, tiếng kêu thét của những người chết và bị thương tạo thành một bối cảnh tột độ căng thẳng, tình thế ấy đòi hỏi con người phải có những nỗ lực bất thường để vượt qua những nguy hiểm bất thường. Khi phải đối mặt với cái chết, không những của bản thân mà của đồng bào, đồng đội, mà phía sau những cái chết cụ thể ấy, là một cái chết vô hình hơn, cái chết của tổ quốc, những người dân yêu nước đều có khả năng làm một điều gì đó: lớn hơn bản thân họ, mạnh hơn sức lực của họ, vượt lên trên những toan tính thông thường của đời họ. Đó chính là những giây phút tạo ra các anh hùng.
Đó là sự siêu tuyệt thuần tuý (Une pure transcendance).
Khi trạng thái hưng phấn cao độ, sự siêu tuyệt qua đi, con người trở lại với chính bản thân họ, với các khả năng hữu hạn của họ mà yêu cầu họ “diễn lại như thật” các hành vi lúc nhập đồng thì hoàn toàn là điều ngu ngốc, thậm chí điên rồ. Thử hỏi các đạo diễn điện ảnh xem, nếu các diễn viên của họ phải vác một cái chuỳ thật sự nặng ba chục cân chứ không phải chuỳ bằng nhựa, liệu họ còn sức diễn nữa hay không? Những nhà báo này cũng thiếu kiến thức và sự từng trải để hiểu con người: Phàm đã là người đứng đắn, không ai đủ trơ trẽn để “diễn một màn tự khoe mình”; chỉ có những kẻ vô liêm sỉ và cơ hội mới làm điều đó. Nhìn ảnh thì biết Ngô thị Tuyển là một thôn nữ thật thà, chất phác, chị ấy từ chối diễn cũng không có gì là lạ. Lúc đó, để biểu diễn những màn “chiến thắng” nhằm tuyên truyền với báo chí trong và ngoài nước đã sẵn có cô Nguyễn Thị Hằng, người nhờ nhan sắc, nhờ ôm ấp kỹ ông Quang, chỉ huy quân khu tả ngạn, được đưa lên thủ đô. Ở thủ đô, sau khi trở thành bồ non của ông Lê Đức Thọ, cô lại được ông Lê khả Phiêu tổng bí thư đảng bổ nhiệm vào chức Bộ trưởng bộ thương binh xã hội. Dân Thanh hoá có câu: “Cô Tuyển vác đạn, con đĩ Hằng lên ngôi ”
Trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ, có vô số Ngô thị Tuyển. Cả dân tộc sống trong trạng thái Nhập đồng. Làm sao có thể khác được khi phải đối mặt với một địch thủ mạnh hơn mình cả ngàn lần? Hoặc là chết một cách bị động, hoặc phải chịu đựng sự thách thức của lịch sử bằng những nỗ lực vượt lên bản thân và phải biết chấp nhận cái chết một cách chủ động. Có lẽ, nghịch lý này cũng có tính phổ biến nếu ta đọc lại các cuộc chiến tranh từ thời thượng cổ đến ngày nay. Dân tộc Việt Nam không phải dân tộc duy nhất có khả năng tiến hành những cuộc chiến tranh không cân sức, và lòng yêu nước cũng không phải đặc tính riêng biệt của những người cộng sản Việt Nam như ông Tố Hữu tự nhận. Thói tự khoe khoang là biểu hiện của sự vô văn hoá hoặc tính mù quáng. Đáng tiếc thay, trong một thời gian dài, cả xã hội Việt Nam đã tiêm nhiễm thói tự ngạo mù quáng này. Đóng góp đáng kể nhất để tạo nên cái tâm lý ấy là những bài viết của lớp “nhà báo tinh hoa của Đảng” kiểu như ông Thép Mới, và đặc biệt là các câu thơ đầy tính hào nhoáng của ông Tố Hữu:
“Ta đang đứng trên đỉnh cao thời đại”
“Lương tâm nhân loại kí thác vào ta”
“Sứ mệnh của ta là thức tỉnh lương tâm nhân loại”…
Những câu thơ kêu như cả đội kèn nhà binh thổi to hết cỡ, đầy ngập những tính từ như hùng tráng, chói lọi, cao cả… Tôi vốn không thích thơ Tố Hữu nhưng ít nhất, tôi cũng ngỡ những điều ông ta nói có đôi ba phần sự thật. Ai có thể ngờ được khả năng phét lác của “nhà thơ Lớn”, một trong số các rường cột quốc gia? Cuối hè năm 1984, tôi đến Mạc Tư Khoa, thủ đô Liên bang Xô viết, trong phái đoàn gọi là điện ảnh trẻ nhưng trên thực tế toàn những người xấp xỉ sáu mươi, tôi được coi như trẻ nhất cũng sắp 40 rồi. Đó là lần đầu tiên tôi đặt chân đến một xứ sở khác. Đứng trong khách sạn, nhìn xuống đường, gặp đúng lúc một đoàn Việt Nam khoảng ba, bốn chục người đi thành hàng ba bên vỉa hè đối diện. Chắc chắn đó là một đoàn cán bộ được đảng và nhà nước cho phép đi tham quan. Lần đầu tiên tôi bắt gặp hình ảnh thật của đồng bào mình: đó là những con người nhếch nhác, gầy guộc, ngơ ngác, rúm ró trong những bộ complet đen của bộ tài chính cho mượn. Vì phải mặc những thứ quần áo không phải của chính mình, trông họ khổ sở và ngượng nghịu. Vì bước tới một nơi xa lạ, lại không biết tiếng, họ có bộ mặt hoảng hốt, thất thần. Người đi sau phải níu vạt áo người đi trước vì sợ lạc, những người ở hàng trên cùng thì bám sát gót một người Nga, hẳn là người hướng dẫn và cũng là phiên dịch.
Vừa nhìn đám đồng bào khốn khổ của mình, tôi vừa tự nhủ:
“Đây là những người ở rừng ra, những người bị rút kiệt máu sau một cuộc chiến tranh lâu dài và cam khổ. Những người không biết đến sự sống mà chỉ quen đối mặt với cái chết. Giờ đây, giữa ban ngày, giữa đô thị, ở một phương trời khác, họ hiện hình như các bóng ma đi ra từ những miền u tối. Họ là sự cụ thể hoá bộ mặt tàn bạo của chiến tranh. Hình ảnh của họ là hình ảnh tượng trưng cho dân tộc chúng ta, một dân tộc chưa bao giờ được sống thực sự. Một dân tộc sống sót. Một dân tộc kiên trì mơ ước sống, chuẩn bị sống, nhưng cuộc sống với đúng nghĩa của nó chưa đi tới. ”
Và tôi nhớ lại những câu thơ của ông Tố Hữu. Lúc này, những câu thơ ấy vang trong óc tôi như tiếng rít ghê tai của bánh xe lửa nghiến trên đường ray. Lẽ ra, thay vì khoe khoang hão, nhà nước Việt Nam phải chú ý đến đời sống các chiến binh của họ, ít ra lo cho họ được đôi giầy vừa cỡ, được tấm áo vừa lưng, trước khi đưa họ lên tầu. Như thế, không chỉ riêng ông Lê Duẩn mà ông Tố Hữu và rất nhiều lãnh tụ cộng sản Việt Nam khác cũng mắc bệnh vĩ cuồng, họ ngửa mặt nhìn lên mặt trăng, tưởng mình đang đứng trên mặt trăng trong khi công dân của họ diễu hành trên các hè phố Mạc Tư Khoa như một đám ăn mày. Tôi ngồi chết dí trong khách sạn, khóc. Ông Tô Hoàng, một sinh viên Việt Nam đang theo học tại trường điện ảnh VGIC đến thăm, liền bảo:
“Con mụ này, người ta đi Liên xô thì cười tươi như hoa, mụ thì khóc như bị đi đầy ở Nghệ Tĩnh. Đúng là rồ.”
Tôi không trả lời. Ông Tô Hoàng cũng đã từng đi lính nhưng rất nhanh đã được quay về hậu phương và được chọn ra nước ngoài học. So với thân phận hàng triệu thanh niên thời ấy, ông là kẻ may mắn. Ông chưa từng chứng kiến cảnh những bầy kiền kiền no nê xác lính đến mức không bay lên nổi. Ông cũng không chứng kiến cảnh dân thường chết dưới bom B52 Mỹ. Ông cảm thấy sung sướng khi ở nước Nga là dễ hiểu. Nước mắt của tôi là điều bất khả tri đối với ông.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi thuộc số những người vỡ mộng sớm nhất. Nhưng chỉ vài năm sau, con số những kẻ vỡ mộng tăng lên một cách không ngừng. Đầu những năm 80 sự đói khổ về vật chất là con quỷ hiện hình cả ngày lẫn đêm trên toàn cõi. Đói khổ là món quà chia đều cho toàn dân, trừ một số người nắm quyền. Sự giàu có và xa hoa của một thiểu số cộng sản giống như vòi nước lạnh hắt vào mặt dân chúng. Hiển nhiên là trong dân chúng, có vô số kẻ từ chiến trường cởi áo lính trở về. Như cuốn “Bên thắng cuộc” của ông Huy Đức đã nêu, những người anh hùng lái xe tăng 390 “cắm lá cờ lên dinh độc lập” sau khi giải ngũ, một anh đánh giậm, một anh cắt tóc, một anh lái xe lam, một anh gác đầm cá, sống trong cảnh lam lũ. Tuy nhiên, họ còn cơ may được nhà báo và nhiếp ảnh Pháp Françoise De Mulder trả lại lẽ công bằng vào năm 2003. Nhưng họ chỉ là bốn người, một tuyệt đại thiểu số. Còn hàng triệu người lính khác, khi trở về cuộc sống của dân thường, đối mặt với nỗi đói khổ và sự áp bức của hệ thống cường hào địa phương, lúc đó họ nghĩ gì?
“Chúng ta đổ máu để cho ai?”
Khi ra đi, ai cũng nghĩ là chiến đấu cho độc lập dân tộc nhưng dần dà, mọi người đều ngờ ngợ rằng mình lầm. Người Mỹ không đến chiếm đất đai, không thu hải sản, không bắt dân mò ngọc trai, nộp đá quý. Tóm lại, hoàn toàn không giống cái sơ đồ quen thuộc mà họ đã hình dung về quân Minh, quân Nguyên và quân Thanh. Khi ra trận, ai cũng có ý định ngầm ẩn là thích vào trán hai từ “Sát Thát”. Bây giờ nghĩ lại, cảm thấy có gì đó bất ổn và danh từ “quân xâm lược Envahisseurs” có vẻ như không thích hợp trong trường hợp này.
“Vậy ta chiến đấu để làm gì?”
Để cho chủ nghĩa cộng sản chiến thắng và cụ thể hơn, để mấy ông lớn cộng sản cầm quyền, đó là điều hiển nhiên ai cũng thấy.
Các ông lớn cộng sản giờ nắm trong tay tất thảy chiến lợi phẩm mà xương máu hàng chục triệu người đổi lấy: Trước hết họ nắm trong tay mười sáu tấn vàng của kho Long Thành. Họ nắm trong tay toàn bộ số vàng, kim cương cũng như ngoại tệ của dân miền Nam kẹt trong các nhà băng. Nhưng sau rốt, nguồn tài sản sau đây mới là quan trọng: Họ biển thủ toàn bộ số vàng mà lính áp tải về sau cuộc giải phóng Căm-pu-chia, số lính này quá đông nên họ không thể xử lý biện pháp quen thuộc của vua chúa xưa kia là chôn sống. Những người lính này sau khi giải ngũ đã cất tiếng thở dài:
“Biết thế hồi đó thủ một nắm cho vào túi thì giờ đây đỡ khổ!”
“Bây giờ mới biết mình ngu. Lẽ ra hồi ấy…”
Biết thế! Lẽ ra! Nếu như …
Toàn những lời than thở muộn màng.
Tiếng Pháp có một thành ngữ khá hay: Après coup!
Người ta chỉ hiểu được sự thật khi mọi sự đã lỡ làng.
Năm 1991, những vụ hoá giá biệt thự xảy ra và khá nhiều người biết đám quan lại như Lê Hãn (con trai trưởng Lê Duẩn), Trần Bạch Đằng, Trần Văn Giàu, Dương Quang Đông…cùng nhiều ông lớn khác bán mỗi biệt thự trên hai ngàn cây vàng bỏ túi. Lúc đó, bà Ngô Bá Thành, đại biểu quốc hội đã kêu lên:
“Thành phố tham nhũng tập thể, cướp công trình của cả dân tộc, chia chác xương máu của cả nước”.
Nhưng bà Ngô Bá Thành cũng như đa phần dân chúng còn không biết đến những nguồn vàng to lớn hơn, quan trọng hơn, mà kẻ cầm quyền đã chia chác trong bóng đêm.
Nỗi đau khổ chiến tranh, toàn dân phải gánh chịu, nhưng bộ phận chịu đựng sự mất mát lớn nhất vẫn là những người cầm súng và gia đình họ. Vào khoảng 2004, 2005, một tờ báo công nhận con số mất tích trong chiến tranh là trên 900.000, có nghĩa là ngót nghét một triệu. Nhà cầm quyền có thể công bố con số giả về sự tử vong nhưng con số mất tích thì khó bôi xoá vì sau chiến tranh hai, ba chục năm, những gia đình có con em mất tích vẫn tiếp tục khiếu kiện và đi tìm thân nhân của họ. Trong lúc đó, khoảng cách giữa các ông lớn cầm quyền với dân chúng càng ngày càng xa, giống như bờ đất lở.
Từ xưa đã có câu: “Tình đời thay trắng đổi đen.”
Không có gì cũ hơn và cũng chẳng có gì mới hơn là sự bội phản của người với người.
Lúc cần làm cuộc chiến tranh, ban tuyên huấn trung ương đảng tìm được cả một đội quân tuyên truyền để ngợi ca người lính. Thêm vào đó, không kể những người ăn lương để làm “tâm lý chiến” còn vô số người sáng tác theo chính cảm hứng và nhận thức của mình. Ý chí chống ngoại xâm vốn là nguồn cảm hứng cỗi rễ của một dân tộc không ngừng tranh đấu để giành quyền tự chủ như dân Việt Nam. Cố nhà văn Nguyễn Minh Châu viết cuốn “Dấu chân người lính”, cuốn sách thuộc loại best-seller đầu bảng lúc ra lò. Nhạc sĩ Vũ trọng Hối viết ca khúc tuyệt đẹp:
“Ta vượt trên triền núi cao Trường sơn.
Núi mòn mà đôi gót không mòn…”
Nguyễn Minh Châu, Vũ Trọng Hối không phải bị cưỡng chế mà viết, họ viết với tất cả sự chân thành và niềm cảm hứng. Cũng như những người lính khác bước vào chiến đấu, họ sáng tác trong trạng thái Nhập đồng, hoặc nói văn vẻ hơn, trạng thái Siêu tuyệt (Transcendance). Lúc đó, chưa ai có đủ từng trải lẫn thông tin để hiểu sự thật.
Hơn một thập kỷ sau, vào năm 1985, Nguyễn Minh Châu (sinh năm 1930) hẳn đã vỡ mộng nên đã nói với tôi trên trại sáng tác Đại Lải của Hội nhà văn:
“Mình xui con người ta đi vào chỗ chết. Biết đâu sự thể nó lại ra thế này?…”
Rồi anh thở dài và im lặng. Nguyễn Minh Châu vốn là người kín đáo, thường tự nhận một cách công khai trước đồng nghiệp:
“Tôi nhát lắm, tôi sợ chết lắm. Vua chúa châu Á vốn coi nhà văn ngang với bọn ăn mày. Chúng ta phải biết thân biết phận.”
Tuy sợ chết, anh vẫn không tránh được cái chết. Chừng vài năm sau ngày gặp tôi trên trại viết văn Đại Lải, anh chết vì ung thư máu, do nhiễm chất độc màu da cam trong chiến trường Quảng trị. Đó là một nhà văn quân đội, đã từng sống khá lâu với lính Trường sơn. Tuy nhiên, anh chết sớm còn là may, nếu sống thêm một vài năm nữa, anh sẽ phải chứng kiến sự phản bội tàn độc của những kẻ cầm quyền đối với binh lính, và con tim nhút nhát của anh sẽ phải dày vò quằn quại một cách dữ dội hơn nếu anh thấy những người anh hùng năm xưa “Xẻ dọc trường sơn đi đánh Mỹ” đã biến thành “Những thằng tù không số, bị giết dần trong các nhà giam”.
Đó là sự kiện xẩy ra cuối thập kỷ 80, gần như cùng lúc với vụ Thiên An Môn ở Trung quốc.
Tôi tạm gọi là Thiên An Môn Việt Nam.
Vì sao lại là Thiên An Môn?
Vì bản chất sự việc cũng là một cuộc tàn sát dân chúng để bảo vệ nền chuyên chính và số lượng người thiệt mạng cũng ngang ngửa với vụ Thiên An Môn xẩy ra ở Tầu.
Thời đại của chúng ta là thời đại truyền thông.
Thiên An Môn Trung quốc có cơ may được biết đến vì nó xảy ra giữa ban ngày, tại Bắc kinh, nơi báo chí thế giới làm việc. Nhà cầm quyền Trung quốc vốn cứng rắn, không thèm đếm xỉa tới dư luận nước ngoài nên họ không che giấu hoặc nguỵ trang cuộc tàn sát dân chúng. Như thế, nhân loại biết được sự kiện này nhờ thói ngạo mạn của ông vua Đặng tiểu Bình.
Ngược lại trăm phần trăm, Thiên An Môn Việt Nam xẩy ra trong bóng đêm, tại các tỉnh, trước hết là Thái Bình, nơi các phóng viên báo chí thế giới bị ngăn cấm đi tới. Nhà cầm quyền Việt Nam không dám ngỗ ngược thách thức dư luận thế giới như các bậc đàn anh Trung Hoa, họ chọn con đường mềm dẻo hơn, khôn ngoan hơn và hiệu quả hơn. Số người bị chết trong cuộc tàn sát này là khoảng giữa một ngàn với hai ngàn, có nghĩa là bằng số người bị bắn chết trên quảng trường Thiên An Môn nhưng sự giết chóc diễn ra từ từ, lặng lẽ, trong các trại giam khác nhau, không một tiếng kêu nào lọt được ra ngoài, không một ống kính thu hình nào ghi lại được. Nhà cầm quyền Việt Nam, hành động theo truyền thống du kích, có nghĩa là ẩn mình trong bóng tối, nói cách khác, họ thực thi các biện pháp độc ác một cách uyển chuyển của loài rắn rết (à la façon reptilienne). Họ thành công tuyệt đối. An toàn tuyệt đối. Tuy nhiên, cũng vì không thể giết hết gia đình của các cựu chiến binh nên những người như chúng tôi mới có thể điều tra về cuộc tàn sát này.
Tôi xin kể vắn tắt:
Thời gian ấy, tôi vẫn thường gặp gỡ các ông Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang. Một bữa, ông Độ bảo:
- Mấy hôm nay họ tăng cường số công an gác cửa nhà tôi. Họ nghi cô với tôi chỉ đạo cuộc nổi dậy của các cựu chiến binh ở Thái Bình.
- Vì sao? Tôi hỏi.
Ông Trần Độ trả lời:
- Tại vì cô là dân Duyên hà còn tôi là dân Tiền hải. Chúng ta đều có gốc ở tỉnh Thái lọ. Thêm nữa, tôi là tướng còn cô cũng là dân từ Quảng bình khói lửa trở về. Họ cho rằng chúng ta xúi giục cựu chiến binh.
Tôi nói:
- Tôi có biết gì đâu. Đã gần một tháng nay tôi ngồi viết, không tiếp xúc với ai, không rời khỏi nhà quá một trăm mét. Hành trình của tôi chỉ bao gồm từ tầng ba khu chung cư xuống mặt đường rồi lại leo lên. Vài ngày một lần tôi xuống đường mua thực phẩm. Tuy nhiên, nếu họ đã ngờ vực tôi xúi giục cuộc khởi dậy này, tôi sẽ điều tra sự thật về nó, như thế, để khỏi phụ lòng bộ nội vụ Việt Nam.
Ông Độ bảo:
- Nhưng cô cũng bị theo rõi mà.
Tôi đáp:
- Đương nhiên. Nhưng bọn công an không thể theo rõi tôi 24 trên 24, buổi tối chúng nó phải về chăm con và ngủ với vợ. Vả chăng, trước kia Việt minh hoạt động du kích ra sao thì bây giờ tôi cũng hoạt động du kích đúng như vậy. Thêm nữa, tôi không phải một mình cho dù các nhà báo Pháp đặt cho tôi biệt danh “Con sói cái đơn độc”. Không ai có thể chiến đấu một mình trừ các vị thánh. Tôi không phải là thánh, tôi là người.
Phong trào đấu tranh của các cựu chiến binh tỉnh Thái Bình khởi dậy ở Quỳnh Lưu, một trong các xã nghèo nhất tỉnh. Ở đây, chính các cựu chiến binh là những người đầu tiên phát hiện ra các vụ “thu thuế đểu” của bọn hào lý. Họ phát động dân chúng lên thành phố biểu tình, yêu cầu tỉnh uỷ trả lại dân các món tiền thu khống. Dường như ở tất cả các xã, cựu chiến binh đều là lực lượng đầu tầu hướng dẫn dân chúng đấu tranh. Phong trào nhanh chóng lan sang các huyện khác. Rồi từ tỉnh Thái Bình, cuộc biến động lan sang Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định và một phần Quảng Ninh. Lúc đó, có khá nhiều nhà báo nước ngoài đòi xuống các tỉnh để xem xét tình hình. Công an Hà Nội trả lời một cách mềm mỏng:
“Xin các vị chờ một vài ngày để chúng tôi sắp xếp phương tiện đi lại. Nếu các vị đi bây giờ e rằng mất an toàn.”
Họ khất lần như vậy. Ngày nọ qua ngày kia, đám nhà báo mất kiên nhẫn. Việt Nam đã bị lãng quên, chẳng có gì đáng làm một cuộc đầu tư lớn, kể cả thời gian lẫn tiền bạc. Các điểm nóng của hành tinh đã chuyển sang vùng đất khác. Vậy là, các phóng viên nước ngoài, sau một hồi chờ đợi mỏi mệt, người nọ theo người kia lần lượt leo lên thang máy bay. Một khi, không còn ống kính báo chí nào ở Hà Nội, chính quyền lập tức tổ chức một cuộc bắt bớ rầm rộ ở khắp các địa phương. Đương nhiên, số lượng người bị bắt nhiều nhất vẫn là ở Thái Bình. Nửa đêm, xe hòm thép của công an ập vào từng làng, dưới sự dẫn đường của cán bộ xã, lôi những “kẻ đầu sỏ” các cuộc biểu tình lên xe, trước tiếng kêu la gào thét của thân nhân lẫn láng giềng. Không cần tuyên bố, cũng chẳng có cáo trạng, các cuộc bắt bớ này diễn ra giống hệt các cuộc vây ráp, khủng bố của thực dân Pháp trước đây nếu không muốn nói là còn tàn bạo hơn. Sau đêm ấy, gia đình các cựu chiến binh không có cách nào liên lạc được với thân nhân của họ. Những ông bố, bà mẹ, những người vợ hội họp nhau để đi kêu cứu. Nếu ai sống ở Hà Nội vào thời gian đó, sẽ nhớ rằng có những ngày đột nhiên con phố Trần Bình Trọng bị bít kín hai đầu, ngăn xe qua lại. Ấy là vì thân nhân các cựu chiến binh biểu tình ở cổng bộ nội vụ (số 15 Trần bình Trọng), đòi trả lời về những người bị bắt. Không ai đánh đập họ nhưng cũng không ai tiếp họ. Đám dân khốn khổ ngồi giãi nắng qua trưa, được các quan lớn phát một chiếc bánh mì rồi tống lên xe tải chở về Thái Bình. Nhưng đến nửa đường, lái xe dừng lại (đương nhiên là theo lệnh bề trên), đuổi đám dân quê xuống, bắt buộc họ phải đi bộ bốn năm chục cây số mới về đến làng. Tình trạng giao thông ở Việt Nam thời ấy vô cùng tồi tệ và khoảng cách là một trở ngại mà con người, trước hết là các nông dân, không đủ phương tiện, không có tiền nong, khó có thể vượt qua. Như thế, qua vài lượt, những người dân quê cạn kiệt hơi sức, cũng chẳng còn tiền mua vé xe lên Hà Nội tranh đấu nữa. Họ đành phải câm lặng chịu đựng. Chịu đựng, vốn là thói quen cố hữu của dân Việt Nam.
Trong lúc ấy, số phận những cựu chiến binh ra sao?
Vỡ mộng. Nguồn: Orangeya's photostream
Vỡ mộng. Nguồn: Orangeya’s photostream
Họ bị phân bố vào các nhà tù khác nhau nằm rải rác trên toàn quốc, người nọ không còn liên lạc được với người kia. Sau vài tuần, họ bị chuyển đến sống trong các trại giam dành cho bọn tội phạm đặc biệt, những kẻ mang án chung thân hoặc ít nhất hai mươi lăm năm tù, những kẻ hung hãn, giết người không ghê tay. Ở đó, họ được thanh toán một cách dần dà bởi chính đám tù này. Giết một cựu chiến binh, án được giảm hai năm. Giết hai, án được giảm bốn năm. Tỷ lệ cứ theo thế mà nhân lên, càng giết được nhiều, càng nhanh được giải phóng. Vì thế, cuộc tàn sát trở thành một “sự nghiệp quan trọng” một cuộc “đua tranh” của bọn tội đồ. Chúng giết họ theo nhiều kiểu khác nhau. Nhưng cách được xử dụng nhiều nhất là “cắm đũa”. Vì trong trại giam, những vật được coi là vũ khí đều bị cấm nên đám quản giáo chỉ thị ngầm cho bọn phạm là chỉ sử dụng các vũ khí đặc biệt “tiện lợi, nhẹ gọn”. Phương tiện hữu hiệu nhất là đũa tre. Những chiếc đũa được vót bằng tre đực già, cứng như sắt, một đầu được mài nhọn như kim, đầu kia để tù kiểu như đầu một que đan. Khi đã có được thứ “kiếm tre” này, bọn tội phạm rình lúc các cựu chiến binh ngủ say, ấn đầu đũa nhọn vào lỗ tai họ đồng thời dùng mu bàn tay hoặc một hòn đá quả xoài thay cho chiếc búa, đóng thật mạnh vào đầu tù của chiếc đũa cho nó xuyên từ tai nọ sang tai kia. Người bị hại chết ngay tức khắc, chết không một tiếng kêu. Kiểu chết này là thứ sáng tạo vô cùng độc đáo của công an Việt Nam đáng được ghi vào sử sách. Những người cựu chiến binh, đám anh hùng Trường Sơn năm xưa, những chàng trai “vừa ca hát vừa đi vào chiến trường” đã được Đảng thân yêu của họ xử lý theo cách đó.
Trong nhóm đấu tranh của tôi có một người cũng là cựu chiến binh, trong chiến tranh Việt-Mỹ đã hai lần được đề bạt là anh hùng và cả hai lần đều trượt vì mắc tội chửi cấp trên là: “Lũ chó, chúng mày ham thành tích, chúng mày giết lính”.
Lúc xảy ra vụ Thiên An Môn Việt Nam, anh rất lo cho số phận một người đồng đội cũ nên đến Quảng Ninh tìm. Anh bạn Quảng Ninh nổi tiếng là một tay thiện xạ trong chiến tranh, ngực treo đầy huân chương, may mắn không bị bắt vì suốt thời gian xảy ra cuộc biến động phải ở trong bệnh viện nuôi đứa con bị bệnh nặng. Nhưng hai người bạn thân nhất của anh đã chết trong tù. Người cựu chiến binh này đã để nước mắt rơi lã chã và nghiến răng nói:
“Những viên đạn của tôi bay lạc. Đáng lẽ chúng phải găm vào đầu những thằng khác.”
Đáng lẽ!…
Đây là sự vỡ mộng của một người lính bị phản bội. Sự vỡ mộng ấy kèm theo ước muốn trả thù, nó bạo liệt hơn hơn tất thảy các trạng thái vỡ mộng thông thường, chỉ bộc lộ bằng những tiếng thở dài ảo não.
*
Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ là cuộc chiến tranh mà truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam đã bị lạm dụng ở mức tối đa.
Xương máu của lính và dân đổ xuống đã xây nên bức tường thành theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa thực.
Bức tường thành đồ sộ ấy có thể là khải hoàn môn cho người này và là cổng vào địa ngục cho người kia, tuỳ theo cách nhìn của họ.
Đối với tôi, đó là bằng chứng kinh khủng nhất cho sự nhầm lẫn của con người.
Paris ngày 11 tháng 2 năm 2013.
© 2013 DCVOnline