Nhưng cuộc
cách mạng theo kiểu Copernicus thực sự trong kinh tế học là cách thức liên kết
thuyết chủ quan về giá trị với giá trị lao động. Thay vì coi giá trị của đầu ra
được xác định bởi giá trị của những yếu tố ở đầu vào như thuyết về giá trị lao
động thì thuyết chủ quan về giá trị cho thấy một điều khác hẳn: giá trị của
những yếu tố đầu vào như lao động được xác định bởi giá trị của đầu ra mà đầu
vào góp phần tạo ra.
Món ăn ngon
đắt không phải là do giá lao động của đầu bếp. Mà, lao động của đầu bếp được
đánh giá cao chính là vì ông ta có thể làm ra món ăn mà công chúng thấy là rất
ngon, rất đẹp hoặc có lợi cho sức khỏe.
Theo quan
điểm này, lao động được tưởng thưởng theo khả năng của nó trong việc tạo ra
những sản phẩm mà người khác cho là có giá trị. Khi xem xét những cách thức mà
lao động kết hợp với vốn, tạo điều kiện cho lao động sản xuất ra những hàng hóa
mà người ta coi là có giá trị hơn, đến lượt nó, điều này làm gia tăng thù lao
cho lao động thì toàn bộ thế giới quan của Marx trở thành lộn chân lên đầu. Tư
bản không bóc lột lao động. Thay vào đó, nó làm gia tăng giá trị của lao động
của bằng cách cung cấp cho lao dộng những công cụ cần thiết để làm ra nhiều món
hàng hóa mà người ta coi là có giá trị.
Chúng ta vẫn bị thuyết về giá
trị lao động ám ảnh
· Bởi Admin
04/12/2015
Steven
Horwitz
Phạm Nguyên Trường chuyển ngữ
Phạm Nguyên Trường chuyển ngữ

Tại sao có
quá nhiều sinh viên tin rằng họ phải được điểm cao hơn cho những bài viết mà họ
đã mất nhiều thời gian viết như thế? Đấy không phải là tin vào chất lượng của
bài làm mà là tin vào số giờ bỏ ra để làm bài.
Hiểu lầm cơ
bản này về giá trị của lao động lại nằm ở trung tâm của phần phê phán chủ nghĩa
tư bản của Marx.
Trung tâm của mọi thứ trên đời
Hàng ngàn
năm qua, người ta tin chắc rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ và mặt trời
quay quanh trái đất. Với sự ra đời của việc khảo sát có hệ thống, các nhà khoa
học đã đưa ra nhiều giải thích ngày càng phức tạp hơn nhằm giải thích vì sao
những điều họ quan sát được về vũ trụ không nhét được vào giả thuyết đó. Khi
Copernicus và những người khác đưa ra cách giải thích khác, đủ sức giải thích
những sự kiện quan sát được, và đã giải thích một cách rõ ràng hơn và chính xác
hơn, mô hình nhật tâm đã giành chiến thắng. Cuộc cách mạng của Copernicus đã
cho khoa học không còn như xưa nữa.
Trong kinh
tế học cũng có câu chuyện tương tự như thế. Hàng trăm năm qua, nhiều nhà kinh
tế học tin rằng giá trị của một món hàng hóa phụ thuộc vào chi phí để sản xuất
ra nó. Đặc biệt là, nhiều người tán thành thuyết về giá trị lao động, tức là
thuyết khẳng định rằng giá trị của hàng hóa bắt nguồn từ số lượng lao động dùng
để làm ra nó.
Tương tự như
quan điểm địa tâm, học thuyết về giá trị lao động bề ngoài dường như là hợp lý,
vì thường thường, dường như món hàng cần nhiều sức lao động có giá trị cao hơn.
Nhưng, tương tự như những câu chuyện trong môn thiên văn học, lý thuyết ngày
càng trở nên phức tạp khi nó tìm cách giải thích một số mâu thuẫn hiển nhiên.
Bắt đầu từ những năm 1870, trong kinh tế học đã diễn ra cuộc cách mạng tương tự
như cuộc cách mạng của Copernicus, đấy là khi lý thuyết chủ quan về giá trị
(subjective theory of value) được nhiều người sử dụng để giải thích giá trị của
hàng hóa và dịch vụ.
Hiện nay,
thuyết về giá trị lao động chỉ còn rất ít tín đồ, đấy là nói trong số các nhà
kinh tế học chuyên nghiệp, nhưng trong các môn học khác, cũng như trong dân
chúng nói chung, nó vẫn được nhiều người sử dụng khi thảo luận các vấn đề kinh
tế. (Lý thuyết về giá trị lao động trong việc tính điểm, như tôi đã nói ở trên,
đặc biệt thông dụng trong giới sinh viên đại học.)
Bóng ma của Karl Marx (và Adam Smith)
Một trong
những lý do làm cho thuyết này vẫn là cách giải thích ngấm ngầm về giá trị trong
nhiều môn học khác nhau vì những môn này dựa vào người ủng hộ nổi tiếng nhất
của thuyết này, người đã giúp đưa kiến thức về kinh tế học vào những môn học
này: Karl Marx. Marx không phải là nhà kinh tế học duy nhất ủng hộ quan điểm
này, thuyết giá trị lao động cũng không phải chỉ liên quan tới những người xã
hội chủ nghĩa. Adam Smith cũng tin vào phiên bản yếu hơn của thuyết này.
Đối với
Marx, thuyết này là phần quan trọng nhất của quan điểm của ông về những vấn đề
của chủ nghĩa tư bản. Luận cứ cho rằng chủ nghĩa tư bản bóc lột công nhân được
xây dựng chủ yếu trên quan điểm cho rằng lao động là nguồn gốc của tất cả các
giá trị và lợi nhuận của nhà tư bản, vì vậy mà người công nhân - những người
xứng đáng được hưởng những giá trị này đã bị tước đoạt. Khái niệm của Marx về
tha hóa tập trung vào vai trò trung tâm của lao động trong việc biến chúng ta
thành con người và những biện pháp mà chủ nghĩa tư bản dùng nhằm tiêu diệt khả
năng hưởng niềm vui trong công việc của chúng ta và kiểm soát những điều kiện
mà chúng ta sử dụng để tạo ra giá trị. Nếu không có thuyết về giá trị lao động,
thì không rõ lời phê phán chủ nghĩa tư bản của Marx còn giá trị đến mức nào.
Một phần khó
khăn đối với Marx và những người chấp nhận thuyết này là có quá nhiều mâu thuẫn
dường như rõ ràng đến mức họ phải tạo ra những lời giải thích phức tạp để giải
quyết những mâu thuẫn đó. Giải thích thế nào về giá trị của đất đai hay các
nguồn tài nguyên thiên nhiên khác? Giải thích thế nào về những tác phẩm nghệ
thuật lớn, chẳng tốn bao nhiêu công lao động nhưng lại có giá rất cao? Giải
thích thế nào sự khác biệt về tay nghề của từng cá nhân, điều đó có nghĩa là sẽ
cần khoảng thời gian khác nhau để làm ra cùng một món hàng?
Những nhà
kinh tế học cổ điển, trong đó có Marx, đã đưa ra những lời giải thích cho tất
cả những trường hợp rõ ràng là ngoại lệ này, nhưng cũng như những giải thích
ngày càng phức tạp của những người theo phái địa tâm, họ bắt đầu cảm thấy là
những cách giải thích như thế không đúng và người ta bắt đầu tìm kiếm câu trả
lời phù hợp hơn.
Cuộc cách mạng của trường phái Áo
Trong kinh
tế học, câu trả lời xuất hiện khi, tương tự như Copernicus, một số nhà nhà kinh
tế học nhận ra rằng cách giải thích cũ đã thuộc về quá khứ. Điều này đã được
trình bày một cách rõ ràng trong tác phẩm của Carl Menger, cuốn Những nguyên lý
của kinh tế học của ông không chỉ đưa ra lời giải thích mới về bản chất của giá
trị kinh tế, mà còn tạo ra nền tảng của trường phái kinh tế học Áo.
Menger và
những người khác khẳng định rằng, giá trị là chủ quan. Nghĩa là, giá trị của
một món hàng không được xác định bởi những yếu tố đầu vào có tính vật lý, trong
đó có lao động, giúp tạo ra nó. Thay vào đó, giá trị của một món hàng hình
thành trong nhận thức của con người về tính hữu dụng của nó đối với những mục
đích cụ thể mà người ta có tại một thời điểm cụ thể nào đó. Giá trị không phải
là một cái gì đó khách quan và siêu nghiệm. Nó là một chức năng của vai trò mà
đối tượng đóng như là phương tiện nhằm đạt được những mục tiêu vốn là một phần
của những mục đích và kế hoạch của con người.
Như vậy là,
những người theo thuyết chủ quan cho rằng, đất đai có giá trị không phải vì số
lao động dùng để cày nó, mà vì người ta tin rằng nó có thể góp phần làm thỏa
mãn một số nhu cầu trực tiếp của chính họ (ví dụ như trồng cây để ăn) hoặc là
nó sẽ góp phần gián tiếp nhằm thỏa mãn những mục đích khác nếu được sử dụng để
trồng những loại cây để bán trên thị trường. Tác phẩm nghệ thuật có giá trị vì
nhiều người cho rắng đấy là tác phẩm đẹp, nhiều công sức hay ít công sức bỏ ra
không phải là vấn đề. Khi giá trị được xác định bằng phán đoán về tính hữu dụng
thì sự khác biệt về chất lượng lao động không còn gây khó khăn cho việc giải
thích giá trị nữa.
Thật vậy,
giá trị kinh tế là phạm trù khác hẳn với những hình thức khác của giá trị, ví
dụ như giá trị khoa học. Đấy là lý do vì sao người ta trả tiền để có một người
lập cho họ lá số tử vi đầy đủ, mặc dù chiêm tinh học chẳng có tí giá trị khoa
học nào. Điều quan trong trong việc tìm hiểu giá trị kinh tế là nhận thức về
tính hữu dụng trong việc theo đuổi mục đích và kế hoạch của con người, chứ
không phải giá trị “khách quan” của hàng hóa hay dịch vụ.
Lật ngược Marx
Nhưng cuộc
cách mạng theo kiểu Copernicus thực sự trong kinh tế học là cách thức liên kết
thuyết chủ quan về giá trị với giá trị lao động. Thay vì coi giá trị của đầu ra
được xác định bởi giá trị của những yếu tố ở đầu vào như thuyết về giá trị lao
động thì thuyết chủ quan về giá trị cho thấy một điều khác hẳn: giá trị của
những yếu tố đầu vào như lao động được xác định bởi giá trị của đầu ra mà đầu
vào góp phần tạo ra.
Món ăn ngon
đắt không phải là do giá lao động của đầu bếp. Mà, lao động của đầu bếp được
đánh giá cao chính là vì ông ta có thể làm ra món ăn mà công chúng thấy là rất
ngon, rất đẹp hoặc có lợi cho sức khỏe.
Theo quan
điểm này, lao động được tưởng thưởng theo khả năng của nó trong việc tạo ra
những sản phẩm mà người khác cho là có giá trị. Khi xem xét những cách thức mà
lao động kết hợp với vốn, tạo điều kiện cho lao động sản xuất ra những hàng hóa
mà người ta coi là có giá trị hơn, đến lượt nó, điều này làm gia tăng thù lao
cho lao động thì toàn bộ thế giới quan của Marx trở thành lộn chân lên đầu. Tư
bản không bóc lột lao động. Thay vào đó, nó làm gia tăng giá trị của lao động
của bằng cách cung cấp cho lao dộng những công cụ cần thiết để làm ra nhiều món
hàng hóa mà người ta coi là có giá trị.
Chủ nghĩa tư
bản - hiểu đúng theo thuyết chủ quan về giá trị - về cơ bản là một quá trình,
qua đó, con người tìm cách sử dụng một cách tốt nhất những nguồn lực hạn chế
của chúng ta nhằm đáp ứng những nhu cầu cấp thiết nhất của chúng ta. Trao đổi
và giá cả thị trường là cách mà chúng ta làm cho người khác thấy được nhận thức
chủ quan của chúng ta về giá trị để họ có thể tìm ra cách tốt nhất nhằm cung
cấp cho chúng ta những thứ mà chúng ta coi là có giá trị nhất.
Còn phải làm nhiều việc nữa
Đối với các
nhà kinh tế học, thuyết về giá trị lao động có giá trị cũng gần như quan điểm
địa tâm về vũ trụ. Vì lý do đó, toàn bộ lý thuyết của Marx, và do đó, những lời
chỉ trích của ông về chủ nghĩa tư bản, là đều đáng ngờ cả.
Đáng tiếc
là, nhiều người, các học giả không phải kinh tế học cũng như công chúng nói
chung, đơn giản là không biết gì về cuộc cách mạng tương tự như cuộc cách mạng
của Copernicus trong kinh tế học. Lật đổ thuyết về giá trị lao động vẫn là
nhiệm vụ tốn nhiều thời gian và có giá trị.
Steven
Horwitz là Giáo sư kinh tế ở St. Lawrence University và là tác giả cuốn
Microfoundations and Macroeconomics: An Austrian Perspective. Ông còn là thành
viên của Quỹ giáo dục kinh tế (FEE).
Chủ đề: Chính
trị - xã hội
Từ khóa: Phạm Nguyên Trường, Karl
Marx, chủ nghĩa Mác, lao
động, giá trị
- See more
at:
https://www.danluan.org/tin-tuc/20151204/chung-ta-van-bi-thuyet-ve-gia-tri-lao-dong-am-anh#sthash.9zTgzIct.dpuf
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét